Friday 31 July 2009

Liên minh Microsoft-Yahoo có "quật ngã" Google?

Thứ Sáu, 31/07/2009, 17:41

Liên minh Microsoft-Yahoo có "quật ngã" Google?

TTO - Nếu các nhà làm luật chống độc quyền ủng hộ, thương vụ đình đám giữa Microsoft và Yahoo sẽ khiến cuộc đua tìm kiếm trực tuyến trở nên gay gắt hơn. Tuy nhiên, vẫn chưa thể khẳng định liệu Microsoft -Yahoo có thể quật ngã được Google, “ông vua” hiện nay của mạng Internet.

>> Yahoo mất trắng 2,9 tỉ USD vào tay Microsoft
>> Hợp tác với Yahoo: Microsoft "được" nhiều hơn?

Giới phân tích cho rằng, chẳng lí gì Google phải “lăn tăn” trước liên minh mới Microsoft-Yahoo.

Về cơ bản, coi như Microsoft đã đạt được tham vọng bấy lâu. “Xe duyên” với Yahoo sau một chặng đường dài rình rập, gã khổng lồ phần mềm sẽ nghiễm nhiên nắm giữ vị trí thứ hai trên thị trường tìm kiếm trực tuyến (và tất yếu là lợi nhuận quảng cáo) đầy béo bở. Nếu không có trục trặc gì với các nhà làm luật chống độc quyền, thương vụ sẽ giúp Microsoft mở ra một chương mới trong lịch sử của hãng, khi 30% thị phần sẽ là một con số không nhỏ nếu so với thảm cảnh trước đây, vốn vẫn luôn bị Google “sỏ mũi”.

Hoàn toàn có thể hiểu được tâm trạng phấn khởi trong giới lãnh đạo Microsoft. Bing, công cụ tìm kiếm mới ra mắt 2 tháng trước của Microsoft bắt đầu có những dấu hiệu lạc quan về thị phần. Khi Yahoo “trao thân”, Microsoft sẽ có thêm nhiều lựa chọn để cải tiến công nghệ.

Khách hàng đông hơn, thêm cơ hội cho Microsoft

Một trong những món hời béo bở dễ thấy khi bộ phận tìm kiếm của Yahoo và Microsoft hợp nhất đó là: lượng truy vấn web cũng đồng nghĩa với lượng quảng cáo đi cùng, và đó là miếng mồi Microsoft có thể kiếm bộn tiền. Mặc dù công nghệ adCenter của hãng vẫn tỏ ra khá hiệu quả, nhưng nhiều nhà quảng cáo cảm thấy adCenter còn tương đối phiền phức khi sử dụng, đó cũng là một phần khiến cho giới PR dành con mắt thiện cảm hơn cho hệ thống quản lí chi phí quảng cáo của Google.

Mặc dù vậy, sau thời điểm 29-07, tất cả các khách hàng cũ của Yahoo sẽ chuyển sang sử dụng adCenter, đồng nghĩa cơ hội để họ tiếp cận với khách hàng, người dùng cũng nhiều hơn. Ít nhiều, đây là một tín hiệu tương đối lạc quan. Có vẻ như các nhà quảng cáo đang muốn dành cho Microsoft một cơ hội, do đã quá ngán ngẩm với vị thế thống trị của Google, khi gã khổng lồ trong lĩnh vực tìm kiếm thiếu các giải pháp mới và chi phí dịch vụ vẫn còn khá đắt đỏ.

Trong khi đó, CEO của Microsoft Steve Ballmer tỏ ra rất ngạc nhiên trước phản ứng của phố Wall, khi giới đầu tư hồ nghi với quyết định “bán mình” của Yahoo.

Phát biểu trước các nhà phân tích tài chính tại cuộc họp thường niên của Microsoft, Ballmer giải thích lí do vì sao thương vụ sẽ có lợi cho cả hai, thậm chí nó có thể mau chóng “chữa cháy” cho tình trạng cổ phiếu của Yahoo rớt thê thảm. Trong khi giá trị của Microsoft tăng lên đáng kể thì Yahoo thả rốc không phanh. Giá trị cổ phiếu chỉ còn lại khoảng 14,28, giảm 16% (hôm thứ Năm), bằng một nửa mức đề xuất mua lại của Microsoft.

Ballmer thừa nhận, cuộc thương thảo diễn ra thuận lợi, nhưng việc Yahoo không nhận được ngay lập tức bất kì đồng xu nào đã khiến giới đầu tư và các nhà phân tích sốc. Ballmer miêu tả đầy trừu tượng “Chuyện gì đã xảy ra ư? Không có gì cả, chẳng có ai bán, cũng chẳng có ai mua ở đây cả”.

Ballmer khẳng định, doanh thu tăng sẽ là kết quả tất yếu sau khi hai hãng mang đến thị trường những sản phẩm cải tiến và nhất là cả hai nền tảng tìm kiếm và quảng cáo trực tuyến đã được hợp nhất.

Ballmer thừa nhận "cuộc thương thảo diễn ra thuận lợi, nhưng việc Yahoo không nhận được ngay lập tức bất kì đồng xu nào" đã khiến giới đầu tư và các nhà phân tích sốc.

Yahoo “méo mặt”

Bất kể giới lãnh đạo Microsoft và Yahoo mừng ra mặt, giới phân tích vẫn đặt những câu hỏi và dự đoán khá bất ngờ. Điểm đáng chú ý đầu tiên dễ nhận thấy là Yahoo đã phải chấp nhận “nhường nhịn” đáng kể, khi không thể thu về bất kì khoản tiền trả trước nào như hi vọng.

Theo giới quan sát, rõ ràng Microsoft là kẻ “đắc lợi” nhất sau khi giao kèo với Yahoo được kí kết vì hiện nay, thực tế Bing (hay Live trước đây) vẫn hoàn toàn không có “máu mặt” trên thị trường tìm kiếm. Không phải trả một khoản kha khá cho Yahoo cũng là điều khoản thắng lợi mà Microsoft đã giành được trước “cơn khát” Yahoo.

Google “ngư ông đắc lợi”?

Đáng lưu ý là với Google, các nhà phân tích dự đoán, gã khổng lồ trong lĩnh vực tìm kiếm và quảng cáo trực tuyến cũng chẳng lấy gì phải lo lắng khi ít ra, trong một vài tháng trước mắt, Google sẽ trở thành “ngư ông đắc lợi” vì Microsoft và Yahoo sẽ phải bận bịu chiến đấu với các nhà làm luật, quá trình chuyển đổi, tích hợp công nghệ... cũng không hề đơn giản. Vị thế của Google là không phải bàn cãi, khó hãng nào có thể theo kịp trong một sớm một chiều.

Về mặt lí thuyết, sự kết hợp giữa Microsoft và Yahoo rõ ràng một chiến lược khôn ngoan của 2 gã khổng lồ. Cả hai đều không thể đơn thương độc mã cạnh tranh với Google và xu hướng thất thế ngày càng rõ ràng hơn nếu như thương vụ không diễn ra. Cả Microsoft và Yahoo sẽ được nhiều hơn mất khi hợp tác cùng nhau. Ít nhất Yahoo cũng có thể tiết kiệm được khá nhiều chi phí còn Microsoft bỗng dưng trở thành “đại gia” thực sự trên thị trường tìm kiếm.

Businessinsider dự đoán, rất có thể cuối con đường, cả hai sẽ cùng “vỡ mộng” vì đổ bể. Lí do đơn giản là một khi Yahoo bán “mặt bằng” cho Microsoft, việc chia sẻ trách nhiệm quản lí sẽ gây nên khá nhiều vấn đề rắc rối.

Chẳng hạn, khi khách hàng nào đó của Yahoo không hài lòng với công nghệ, liệu hãng có gửi than phiền tới các kĩ sư Microsoft hay không? Khi Microsoft không hài lòng với cách thức Yahoo bán quảng cáo, liệu các kĩ sư của Microsoft có than phiền trở lại? Khi kết quả làm ăn bết bát, các nhà đầu tư biết tìm Microsoft hay Yahoo để thở than? Có thể việc điều hành thương vụ sẽ là một cơn “ác mộng” với Microsoft và Yahoo.

NHẬT VƯƠNG (Tổng hợp)

SOURCE

http://nhipsongso.tuoitre.com.vn/Index.aspx?ArticleID=329400&ChannelID=16

Thursday 30 July 2009

Cái kết cho công cụ tìm kiếm Yahoo Search

Cái kết cho công cụ tìm kiếm Yahoo Search

Ảnh: CNet.
Ảnh: CNet.

Bản thỏa thuận ngày 29/7 giữa Microsoft và Yahoo đã đánh dấu sự kết thúc của cỗ máy tìm kiếm huy hoàng một thời trên Internet bởi từ năm sau, khi tra cứu trên Yahoo, kết quả người sử dụng nhận được là do MS Bing cung cấp.

Sau hơn một năm đàm phán, hai công ty Mỹ cũng thống nhất rằng Microsoft sẽ độc quyền khai thác công nghệ tìm kiếm nền tảng của Yahoo cũng như tích hợp vào trong dịch vụ của họ. Trong khi đó, công cụ search của Yahoo sẽ chuyển sang dùng thuật toán của Bing.

Còn Yahoo sẽ cung cấp dịch vụ quảng cáo trực tuyến cho cả hai bên, tuy nhiên họ phải sử dụng nền tảng chung để bán quảng cáo là AdCenter của Microsoft.

Bản hợp đồng kéo dài 10 năm và bắt đầu có hiệu lực từ năm tới này được ký chỉ 2 tháng sau khi Microsoft cải tổ, đổi tên công cụ tra cứu Live Search thành Bing và nhận được nhiều đánh giá tích cực của người dùng.

*Video hài thể hiện thách thức lớn của Bing

*Những nét hay trên Microsoft Bing

*Live Search khoác 'áo' mới để trở thành Microsoft Bing

*Microsoft 'vung tiền' làm quảng cáo chống lại Google

Yahoo kỳ vọng thỏa thuận với tập đoàn phần mềm Mỹ sẽ giúp họ tăng lợi nhuận hàng năm lên khoảng 500 triệu USD và tiết kiệm 200 triệu USD chi phí đầu tư. Tuy nhiên, điều đó cũng đồng nghĩa Yahoo sẽ phải cắt giảm một phần nhân lực.

Dù là một trong những thương hiệu đầu tiên và nổi tiếng nhất trên Internet, việc để Microsoft tiếp quản công cụ tìm kiếm cho thấy Yahoo không thể tiếp tục chạy đua với Google và Microsoft trong lĩnh vực này.

Google vẫn thống trị thị trường tìm kiếm và đạt doanh thu 5,5 tỷ USD chỉ trong 3 tháng qua. Về phía Microsoft, hợp tác với Yahoo sẽ tạo điều kiện cho họ tăng sức mạnh của công cụ tra cứu và tận dụng mạng lưới các nhà quảng cáo khổng lồ của đối tác.

Yahoo Search 15 năm qua:

Yahoo.com năm 1996.
Yahoo.com năm 2001.
Yahoo Directory năm 2004.
Yahoo hiện nay.

Lê Nguyên (Ảnh: PC World)

source

http://vnexpress.net/GL/Vi-tinh/2009/07/3BA11D04/

Wednesday 29 July 2009

Dầu giảm giá mạnh nhất trong 3 tháng qua

Dầu giảm giá mạnh nhất trong 3 tháng qua

Cập nhật lúc 06:29, Thứ Năm, 30/07/2009 (GMT+7)
,

Giá dầu thô trên thị trường châu Á sáng nay (30/7) tiếp tục xuống dốc sau khi bất ngờ tụt giảm ở mức mạnh nhất trong 3 tháng qua trên sàn New York.

1
Giá dầu có thể thử ngưỡng 60 USD/thùng trong tuần này. (Ảnh: BLB)

Giá dầu thô giao tháng 9 tính tới 6h sáng 30/7 (giờ Việt Nam) giảm 52 cents (-0,82%) xuống 62,83 USD/thùng.

Trước đó vài giờ, giá dầu giao tháng 9 đóng cửa phiên giao dịch ngày 30/7 trên sàn Hàng hoá New York bất ngờ giảm 3,88 USD (-5,8%) xuống 63,35 USD/thùng - mức thấp nhất kể từ 16/7. Đây là phiên giao dịch giảm mạnh nhất kể từ 20/4.

Tính từ đầu năm tới nay, giá dầu tăng 42% nhưng giảm 57% so với mức cao kỷ lục 147,27 USD/thùng vào 11/7/2008.

Giá dầu giảm mạnh như vậy là do báo cáo của chính phủ Mỹ cho thấy dữ trữ dầu bất ngờ tăng mạnh do nhập khẩu tăng cao trong khi tỷ công suất hoạt động của các nhà máy lọc dầu giảm.

Số liệu cho thấy, dự trữ dầu của Mỹ trong tuần tính tới hết 24/7 tăng mạnh 5,15 triệu thùng lên 347,8 triệu thùng. Đây là tuần có dự trữ dầu tăng mạnh nhất kể từ tháng 4.

Trước đó, dự trữ dầu được dự báo chỉ tăng 1,5 triệu thùng.

“Chúng ta đang có nhiều dầu hơn số lượng sẽ sử dụng bất kể thời điểm nào trong thời gian trước mặt. Nhu cầu tiêu thụ dầu không đủ lớn để khiến phải dự trữ dầu vào diện kiểm soát và yếu tố này đang tác động lên diễn biến giá trên thị trường”, ông Phil Flynn, phó chủ tịch bộ phận nghiên cứu tại PFGBest - một công ty môi giới có trụ sở tại Chicago cho biết.

“Cung dầu quá lớn. Thị trường có thể sẽ thử ngưỡng 60 USD/thùng trong tuần này”, ông Michael Lynch - chủ tịch Bộ phận nghiên cứu Kinh tế và chiến lược dầu, tại Winchester, Massachusetts nói.

Không những thế, theo ông Francisco Blanch - trưởng bộ phận nghiên cứu hàng hoá toàn cầu của Ngân hàng Bank of America-Merrill Lynch, chi nhánh London cho biết, có một lượng lớn dầu đang chuẩn bị được đưa vào kho dự trữ. “Cung đang vượt cầu trong thời điểm hiện tại. Và nó cho bạn biết rằng có thể sẽ có một đợt giảm giá của của đồng USD theo đà giảm giá của dầu”.

  • Hà Linh (Theo Bloomberg, Oil)
  • source
  • http://vietnamnet.vn/kinhte/thegioi/2009/07/860806/

Kinh tế nước Mỹ giữa năm 2009

Kinh tế nước Mỹ giữa năm 2009


Duy Anh

Nhận định về tình hình kinh tế nước Mỹ giữa năm 2009

Báo cáo của chủ tịch Bernanke

Trong hai ngày 21 và 22 tháng 7 năm 2009, trong khuôn khổ tường trình bán thường niên trước Ủy Ban Nhà & Dịch Vụ Tài Chánh (House Financial Services) của Thượng Viện Hoa Kỳ, chủ tịch Dự Trữ Liên Bang cho biết là đã có những dấu hiệu khả quan rõ rệt trong sinh hoạt thị trường tài chánh và kinh tế của Hoa Kỳ. Tuy nhiên, nói chung nền kinh tế còn yếu và tỉ lệ thất nghiệp sẽ còn ở mức độ cao cho tới năm 2010.


Chủ tịch Bernanke sau đồng đô-la Mỹ
Nguồn: freakingnews.com

Ông Bernanke cho biết là chính sách hạ thấp lãi suất và những chương trình khác của Dự Trữ Liên Bang đã giúp cho thị trường tài chánh tạm ổn định, làm nền tảng cho kinh tế phát triển trở lại. Nỗi hoảng loạn trong mùa thu năm ngoái đã lắng dịu và những nhà đầu tư bắt đầu trở lại với thị trường tài chánh.

Tuy nhiên ông cho rằng sự hồi phục thực sự của kinh tế còn tùy thuộc vào sự cải thiện của thị trường lao động và mức tiêu thụ của người dân Mỹ. Theo ông, tỉ lệ thất nghiệp sẽ còn tăng cao cho đến cuối năm nay trước khi giảm dần trong những năm 2010 và 2011.

Trả lời những câu hỏi của Ủy Ban Thượng Viện, ông Bernanke né tránh câu hỏi liệu gói kích cầu 787 tỷ đô-la có hiệu quả hay không mà chỉ tường trình là cho tới nay, Dự Trữ Liên Bang mới chỉ sử dụng 25% ngân khoản này. Tuy nhiên ông cũng nhấn mạnh công tác giúp đỡ tài chánh cho các chính quyền tiểu bang và địa phương đã có kết quả tốt.

Về câu hỏi liên quan đến sự thâm thủng của ngân sách nhà nước, ông Bernanke trả lời là tình trạng này không thể kéo dài mãi được. Trả lời câu hỏi liệu hiện tượng lạm phát có khả năng hiện thực hay không sau chính sách buông lỏng tiền tệ thì ông Bernanke tin tưởng là nước Mỹ sẽ không bị lạm phát trong vòng hai năm tới đây. Tuy nhiên, khi cần thiết, Dự Trữ Liên Bang sẽ có biện pháp tăng lãi suất trở lại để ngăn ngừa lạm phát xảy ra.

Trong ngày thứ hai của buổi điều trần, ông Bernanke nghĩ rằng sự hồi phục kinh tế sẽ diễn ra chậm chạp, một phần do giới tiêu thụ Mỹ ngần ngại tiêu xài, vả lại tình hình nợ nần cao và giá nhà cửa bị hạ thấp đã làm mất đi một phần tài sản, giảm mức tiêu thụ của người dân một cách đáng kể. Một điều báo cáo bất ngờ của chủ tịch Bernanke là các viên chức chính phủ đang khuyến khích giới kinh doanh Mỹ nên tìm cách phát triển qua Á Châu, chẳng hạn như Trung Quốc, để thay thế sức cầu trong nước đã bị bão hòa.

Một số Thượng Nghị Sĩ lên tiếng chỉ trích Dự Trữ Liên Bang đã không chu toàn nhiệm vụ điều hòa hệ thống ngân hàng trong kỳ khủng hoảng tài chánh vừa qua và không loại trừ khả năng sẽ tiến hành thẩm tra (audit) hoạt động của Dự Trữ Liên Bang. Vào những thập niên 70 khi lạm phát ở mức độ cao làm kinh tế bị suy thoái, Quốc Hội đã từng yêu cầu Văn Phòng Kế Toán Chính Phủ GAO (Governmental accountability Office) thẩm tra bộ phận Dự Trữ Liên Bang mà chủ tịch lúc đó là Arthur Burns. Trả lời vấn đề này, ông Bernanke cho biết Dự Trữ Liên Bang sẽ vui vẻ cộng tác với Quốc Hội nhằm tường trình tiền thuế đã được sử dụng như thế nào nhưng ông sẽ chống lại các ý định xen vào nhiệm vụ thực hiện chính sách tiền tệ của bộ phận ông. Chủ tịch Bernanke còn yêu cầu Quốc Hội xem xét để ban hành thêm cho Dự Trữ Liên Bang trách nhiệm bảo vệ người tiêu thụ (consumer protection) ngoài hai nhiệm vụ chính hiện nay là ổn định giá cả (price stability) và tạo công ăn việc làm cho mọi người (full employment).
(Ý ông Bernanke ám chỉ thêm quyền hành cho Dự Trữ Liên Bang đchi phối các ngân hàng về lãi suất cho người vay tiền.)

Các nhận định

Điều khẳng định mà hầu hết các nhà kinh tế đều đồng ý là cơn khủng hoảng tài chánh của Hoa Kỳ và của toàn thế giới nói chung đã tạm lắng dịu và mọi người đã thấy ra ánh sáng ở cuối đường hầm. Công lớn đầu tiên phải nhắc đến là chính sách kinh tế của chính phủ Obama, phối hợp chặt chẽ với Dự Trữ Liên Bang Hoa Kỳ và chính phủ các quốc gia tiên tiến khác trên thế giới, đề xuất và thực hiện tốt những biện pháp cứu vãn kịp thời. Nhiều người cho rằng đáng lẽ cơn khủng hoảng có thể tránh khỏi nếu Dự Trữ Liên Bang đã chu toàn nhiệm vụ giám sát kinh tế và hành động kịp thời hơn. Tuy nhiên thà muộn còn hơn không và nếu trong vòng một vài năm tới đây chính sách kinh tế này phát huy thành quả lớn, mang lại thịnh vượng cho nước Mỹ và toàn thế giới, có lẽ Tổng thống Obama sẽ đi vào lịch sử nhân loại là người đã “cứu” thế giới thoát một cơn đại khủng hoảng tầm cỡ cuộc Đại Khủng Hoảng 1929. Chính sách kinh tế theo trường phái tiền tệ mà cha đẻ là Milton Friedman sẽ lại một lần được khẳng định có một giá trị tối ưu không thể chối cãi được.

Ngoại trừ con số tỉ lệ thất nghiệp nằm ở mức cao, những chỉ số kinh tế khác đã có dấu hiệu khả quan nhất định. Giá nhà cửa đã nhỉnh lên 0,9% trong tháng 5 vừa qua. Một số công ty tiêu biểu (bellwhether) của Mỹ đã báo cáo những con số hoạt động khá sáng sủa. Đa số những cơ sở tài chánh lớn như Goldman Sachs, JP Morgan Chase, Bank of America, Citigroup đều báo cáo hoạt động có lãi trở lại. IBM, GE, Intel khai có lãi và đặc biệt cho biết là triển vọng sẽ tốt đẹp hơn trong những tháng sắp tới. Ngay cả GM, mới ra khỏi tình trạng phá sản gần đây cũng báo cáo doanh thu tăng 20% trong quý 2/2009 so với quý 1/2009. Chỉ số Dow Jones của thị trường chứng khoán đã hồi phục trở lại so với hồi đầu năm 2009 còn Nasdaq thì tăng đáng kể.

Tuy nhiên, nhiều nhà phân tích cho rằng bức tranh toàn cảnh còn rất nhiều khó khăn vì nhiều lý do. Một số ngân hàng và cơ sở tài chánh lớn còn đang ôm những món nợ khổng lồ, chưa biết cách nào và bao giờ mới thanh khoản nổi. Ví dụ Morgan Stanley đã ngay thẳng báo cáo lỗ 1,26 tỷ đôla hoặc 1,10 đô-la/cỗ phiếu sau khi kết toán 0,74 cent vào khoản trả nợ một phần trong số nợ tiền TARP 10 tỷ đô-la của chính phủ và 1,32 đô-la vào những khoản lỗ tín dụng khác (MarketWatch, 2009). Theo luật kế toán hiện hành thì đáng lẽ Morgan Stanley không cần phải làm như vậy nhưng công ty này đã tự nguyện báo cáo những con số thật. Nếu tất cả các cơ sở tài chánh đều báo cáo như Morgan Stanley thì chắc chắn đều lỗ chỏng gọng cả.

Tỉ lệ thất nghiệp cao vẫn là một điểm nhức nhối cho nền kinh tế Mỹ. Theo báo cáo của chủ tịch Bernanke, sự hồi phục đặt nền tảng vào sức tiêu thụ của người dân, mà nếu không có công ăn việc làm thì người dân lấy đâu mà tiêu thụ? Có nhà phân tích cho rằng tỉ lệ thất nghiệp là một con số theo sau (lagging indicator) nên chưa nói lên toàn cảnh tình trạng thất nghiệp được. Hơn nữa phương pháp thống kê hiện nay về tỉ lệ thất nghiệp còn nhiều nhược điểm. Do đó người ta thường thấy một điều mâu thuẫn là khi kinh tế bắt đầu hồi phục thì tỉ lệ thất nghiệp lại có khuynh hướng tăng lên. Ví dụ: tổng số lực lượng lao động là 10 người, có 1 người đang ăn tiền thất nghiệp, như vậy tỉ lệ thất nghiệp được tính là 10%. Nay vì tình hình khả quan hơn, có thêm 1 người trước kia đã từ bỏ lực lượng lao động (không lãnh tiền thất nghiệp nữa và không đăng ký tìm việc làm) tham gia trở lại lực lượng lao động. Như vậy, số lao động là 11 người, có 2 người thất nghiệp, vị chi tỉ lệ thất nghiêp tăng lên thành 2/11 = 18%. Do đó, muốn có cái nhìn tổng quát thì cần phải để ý thêm về con số công việc được tạo ra, cũng như số con việc bị mất đi trong từng thời kỳ. Nếu tính theo cách này thì con số cuối cùng cũng không sáng sủa lắm vì theo thống kê của US Bureau of Labor Statistics, từ tháng 12/2008 cho tới nay, kinh tế Mỹ đã mất đi 6.5 triệu công ăn việc làm và coi như con số công việc được tạo ra trong 9 năm vừa qua đã bị tiêu mất.

Điểm an ủi duy nhất là con số công việc bị mất trong tháng 6 vừa qua đã giảm đi đáng kể (476.000) so với con số công nhân bị sa thải trong tháng 2/2009 là 741.000.

Cái giá phải trả để cứu nền kinh tế nước Mỹ đã quá cao đến một mức khó tưởng tượng nổi. Phương án Geithner với 3 chương trình bán đấu giá tài sản độc hại, tài trợ các quỹ công tư hợp đầu tư và Term Asset-Backed Securities Loan Facilities (TALF) đã và sẽ tiêu tốn hết 2 ngàn tỷ đô-la, cộng thêm 700 tỷ đô-la tiền TARP và 787 tỷ đô-la kích cầu chắc chắn sẽ đưa nước Mỹ vào một tương lai khá mờ mịt. Đó là chưa kể nhiều nhà kinh tế nghĩ rằng còn cần một đợt kích cầu thứ hai nữa mới thực sự vực nổi kinh tế trở lại. Nước Mỹ làm sao để trả nợ?


Sơ đồ tỉ lệ nợ quốc gia của Mỹ so với GDP.
Nguồn: Zfact.com
Tuy nhiên, nhiều người biện luận cho rằng điểm mạnh của nước Mỹ là nền kinh tế và đồng đô la vẫn có một giá trị hàng đầu, thuận lợi cho việc mua bán công khố phiếu để tác động vào lãi suất, một yếu tố quan trọng nhất trong việc hồi phục. Ngoài ra việc tung thêm tiền vào lưu lượng sẵn có chỉ thay thế số lượng tài sản đã mất đi, do đó không làm bóp méo các qui luật kinh tế thị trường theo trường phái tiền tệ. Nói như vậy chẳng hoá ra nước Mỹ có sẵn một máy in tiền khổng lồ trong nhà, cứ khi nào bị khủng hoảng thì cứ việc lấy ra in thêm mà tiêu xài phung phí? Điều kỳ lạ này đã từng xảy ra vào thập niên 1940 khi nước Mỹ tham gia Thế Chiến Thứ Hai dưới thời Tổng Thống Truman, tỉ lệ nợ quốc gia lên tới 120% so với GDP. Vậy mà cho đến năm 1980, nhờ những chính sách kinh tế thích hợp, tỉ lệ nợ quốc gia đã giảm xuống còn hơn 30%. Nay thì đang tăng dần lên và có khả năng đạt 100% GDP. Liệu lịch sử có lặp lại cho nước Mỹ hay không?


Thay lời kết


V kiểu Verizon>
Nguồn: gizmodo.com

Cho đến nay thì mọi người tiên đoán khả năng sáng sủa nhất cho kinh tế Mỹ là sẽ hồi phục theo dạng chữ V tương tự như logo của hãng Verizon chứ không thể nào như chữ V của chữ Victory nổi. Khả năng xấu nhất là hồi phục theo dạng chữ L. Chúng ta chờ đón xem sao vậy. Theo Paul Krugman trong lần viếng thăm Việt Nam mấy tháng trước đây thì chỉ trông mong vào New York và London hồi phục trước thì mới tới phiên Việt Nam được. Đành trông mong cho họ mạnh trở lại mau chóng một chút để đất nước được nhờ chứ cứ phải ôm chân người anh cả vĩ đại phương bắc bị nó hà hiếp nhục quá.


Bài do tác giả gởi. DCVOnline biên tập và minh hoạ.

Tham khảo:

- MacDonald, E. (2009). Can Bernanke pull it off? FoxBusiness số ngày 22/07/2009. Truy cập ngày 22/07/2009 từ: http://emac.blogs.foxbusiness.com/2009/07/22/can-bernanke-pull-it-off/
- McMullen, A. (2009). U.S. loses equivalent of every job created in decade. Financial Post. Truy cập ngày 22/07/2009 tại: http://www.financialpost.com/story.html?id=1752178
- MarketWatch (2009). Morgan Stanley swings to loss after TARP payback. Truy cập ngày 22/07/2009 từ: http://www.marketwatch.com/story/mor...k-200972285500
- Randall, M.J. and Barkley, T. (2009). Bernanke says Recovery Depends on Jobs, Consumers. The Wall Street Journal số ngày 22/07/2009. Truy cập ngày 22/07/2009 từ: http://online.wsj.com/article/SB124826860751572047.html
- Sweet, K. (2009). Bernanke: Some Improvement in Economic Prospects. FoxBusiness số ngày 21/07/2009. Truy cậy ngày 22/07/2009 từ:
http://www.foxbusiness.com/story/markets/economy/bernanke-improvement-economic-prospects/
- ZFacts.com (2009). National Debt Graph: Bush goes for WWII Stimulus. Truy cập ngày 22/07/2009 từ: http://zfacts.com/p/318.html
source
DCVOnline

Monday 27 July 2009

Doanh nghiệp lại khốn đốn vì “săn” USD

- Hơn 700 đồng/USD là số tiền chênh lệch giữa tỷ giá niêm yết của các ngân hàng so với giá trên thị trường tự do. Dù Ngân hàng Nhà nước (NHNN) luôn khẳng định không thiếu USD nhưng suốt ba tháng nay, tình hình căng thẳng ngoại tệ không những không giải quyết được mà còn trở nên khủng khiếp hơn sau những động thái “siết chặt quản lý” .

Muốn mua USD phải im lặng...

Sau khi Thống đốc NHNN ra văn bản quản lý chặt chẽ thị trường ngoại hối và có những giải pháp tích cực thì tình hình ngày càng… tồi tệ hơn”.

Sự căng thẳng trên thị trường ngoại tệ liên lục diễn ra nhưng vẫn chưa được giải quyết. Ảnh: VNN.
Sự căng thẳng trên thị trường ngoại tệ liên lục diễn ra nhưng vẫn chưa được giải quyết. (Ảnh: Corbis)

Đó là phát biểu đầy “tâm trạng” của Chủ tịch HĐQT một doanh nghiệp chuyên nhập khẩu vật tư nông nghiệp về văn bản cấm ngân hàng thương mại thu phụ phí bán USD và xử lý một cửa hàng kinh doanh ngoại tệ tại phố Hà Trung thời gian qua của NHNN.

Mạnh miệng vậy nhưng khác với nhiều lần trước và khác với chính hình ảnh “không ngại nói thẳng” vốn có trên nhiều diễn đàn, lần trả lời này, vị doanh nhân trên nhất định “xin không nêu tên”. Đó cũng là yêu cầu mà phóng viên Vietnamnet nhận được khi phỏng vấn lãnh đạo nhiều doanh nghiệp khác.

Giờ chúng tôi rất cần mua USD từ ngân hàng. Muốn mua được USD, doanh nghiệp nên im lặng. Nói ra sợ không còn cửa nữa”, một giám đốc đang muốn mua USD nhập khẩu nhựa giải thích.

Sự e dè này xuất phát từ câu chuyện nhiều doanh nghiệp “tố” phải “chung chi” phụ phí cho ngân hàng thương mại mới mua được USD khiến NHNN vào cuộc.

Tuy nhiên, việc NHNN đưa ra nhiều biện pháp “siết chặt quản lý” trong khi không cải thiện được nguồn cung USD càng làm tăng áp lực thiếu USD trên thị trường.

NHNN siết chặt là đúng nhưng chỉ siết ngọn mà không nhổ tận gốc chỉ làm các doanh nghiệp nhập khẩu thêm khốn khó. Sau lệnh ngày 1/7, nhiều ngân hàng thương mại án binh bất động, không bán USD cho chúng tôi nữa”, kế toán trưởng một công ty thép cho biết.

Ông Tô Dũng, Giám đốc Công ty TNHH Xuân Cầu – doanh nghiệp kinh doanh xe máy Piaggio nhập khẩu - nhận xét: “Các chính sách về tỷ giá NHNN đưa ra không ăn nhập được với chuyển động thực tế của thị trường nên việc bí ngoại tệ mãi không giải quyết được. Trước, dù văn bản không cho phép nhưng vẫn tồn tại công khai tỷ giá trong và ngoài, giờ tuýt còi lại, doanh nghiệp không còn cửa nào để mua ngoại tệ nữa”.

Hết cửa xoay ngoại tệ nhập thép phế liệu về sản xuất, cực chẳng đã, Hiệp hội Thép, rồi lần lượt 7 doanh nghiệp thép, kể cả Tổng Công ty thép Việt Nam đã phải gửi công văn cầu cứu Chính phủ tuần trước.

Ông Nguyễn Văn Bình, Giám đốc Trung tâm Nhập khẩu Vật tư và Thiết bị Hà Nội cũng chia sẻ tình hình đã căng hơn từ đầu tháng 7 trở lại đây.

Dĩ nhiên, doanh nghiệp có thể cậy đến các “nhà băng” ở phố Hà Trung (Hà Nội), nơi “USD rất sẵn, muốn mua bao nhiêu cũng có”. Tuy nhiên, khoảng cách chênh lệch quá lớn, thường quanh khoảng 700 đồng/USD đã khiến nhiều doanh nghiệp buộc phải quay lại với ngân hàng, chấp nhận “chung chi” thêm.

Chợ đen ngân hàng dù sao vẫn đỡ hơn chợ đen ngoài thị trường, hơn nữa việc hợp thức hóa giấy tờ khoản chênh lệch dôi ra cũng thuận tiện hơn”, Trưởng phòng tài vụ của một doanh nghiệp chuyên nhập thiết bị y tế kết luận.

Anh còn hài hước ví rằng nếu muốn “săn” được USD, doanh nghiệp bây giờ cần phải biết “đi nhẹ, nói khẽ, cười duyên” và không nên “than vãn trên báo chí”!.

Doanh nghiệp, ngân hàng cùng “nói dối”

Để “né” tình trạng căng thẳng ngoại tệ, nhiều tháng nay, Xuân Cầu đã gần như chuyển hẳn sang làm đại lý cho Piaggio Việt Nam, nhất là khi dòng xe này đã được lắp ráp nội địa.Nhưng rất ít doanh nghiệp nhập khẩu có thể may mắn chuyển hướng thuận lợi như thế.

Nhiều kiểu lách quy định đã được các ngân hàng và doanh nghiệp thực hiện bởi họ không thể thiếu ngoại tệ trong kinh doanh. Ảnh: VNN.
Nhiều kiểu lách quy định đã được các ngân hàng và doanh nghiệp thực hiện bởi họ không thể thiếu ngoại tệ trong kinh doanh. (Ảnh: Corbis)

Ông Nguyễn Trọng Hải, Giám đốc Xí nghiệp Vật tư và vật tư hóa chất Công ty Vật Tư và XNK hóa chất Hà Nội thẳng thắn cho rằng lệnh cấm ngày 1/7 của NHNN rốt cục chỉ khiến doanh nghiệp mất thêm thời gian, công sức tìm hiểu cách… thích nghi để tiếp tục “cùng nói dối nhau” nhằm xoay sở cho ra lượng USD cần thiết.

Ông Đoàn Trọng Lý, Chủ tịch HĐQT Công ty Cổ phần Chăn nuôi Chế biến và xuất nhập khẩu (Aprocimex) cũng tỏ ra bức xúc “Thống đốc NHNN cứ cho rằng quản lý ngày càng chặt chẽ nhưng không thể mua được USD với giá niêm yết. Chúng tôi cần 3 triệu USD/tháng để nhập khẩu, riêng tiền chênh lệch đã mất mấy trăm triệu đồng”.

Không thêm cộng tiền vào tỷ giá không thì không được việc, miễn sao cộng trừ xong vẫn thương vụ vẫn dương là được”, ông Hải kết luận.

Phương thức “thích nghi” thông dụng là ngân hàng thương mại kết nối giữa doanh nghiệp xuất khẩu có USD hoặc ngân hàng khác với doanh nghiệp nhập khẩu cần mua. Hai bên tự thỏa thuận trên trần tỷ giá niêm yết cộng thêm bao nhiêu tiền và thanh toán chênh lệch với nhau.

Nhìn bề ngoài, ngân hàng không vi phạm luật mà chỉ đứng giữa, làm hợp đồng mua bán trong giá trần. Nhưng theo ông Nguyễn Văn Bình, Giám đốc Trung tâm Nhập khẩu Vật tư và Thiết bị Hà Nội do ngân hàng thu xếp hết.

Chi phí đội lên rất nhiều như hôm chúng tôi mua, tỷ giá là 17.806 VND/USD, cộng thêm 650 đồng/USD thành gần như giá chợ đen. Mỗi lần muốn mở L/C cần từ vài chục nghìn đến vài triệu USD, chênh hẳn một khoản lớn, tất cả lại dồn lên khách hàng thôi”, ông Bình cho biết.

Hoặc doanh nghiệp và ngân hàng mua bán USD với nhau thông qua một đồng tiền thứ ba do NHNN không ấn định tỷ giá tiền đồng với các ngoại tệ như đô la Úc, đô la Canada, euro, yên Nhật…

Tuy nhiên, cách đang được nhiều doanh nghiệp nhập khẩu chọn là liên kết thẳng với doanh nghiệp xuất khẩu, giao dịch thẳng với nhau đỡ được một khoản chênh lệch qua ngân hàng. Nhanh gọn hơn nữa là tranh thủ ngay chức năng xuất nhập khẩu của DN có nguồn thu USD để ủy thác nhập khẩu với chi phí “mềm” hơn tự đi chạy chọt USD rồi mở L/C theo cách thông thường.

Dù chọn cách nào, nhờ biết cách “lách” cùng nhau, cuối cùng phần lớn các doanh nghiệp vẫn có thể xoay xỏa qua cánh cửa hẹp. Bởi xét cho cùng khi nguồn cung vẫn bị kìm hãm ở đâu đó, không được giải tỏa, điều tiết bởi thị trường thì mọi biện pháp hành chính cũng chỉ cho kết quả như bịt lỗ thủng, bịt chỗ này, lại thủng chỗ khác.

NHHH luôn cho rằng không thiếu ngoại tệ và duy trì chính sách tỷ giá linh hoạt nhưng khi chênh lệch đến gần 1.000đồng/USD mà vẫn neo tỷ giá thì tôi không hiểu thế nào là linh hoạt. Nguyên nhân cơ bản của việc đóng băng là do chính sách tỷ giá không thích hợp.

Thứ nhất, đang tồn tại một khoảng cách tương đối lớn giữa thị trường chính thức và bên ngoài, đủ để người ta có thể thu lợi. Việc cộng thêm các khoản phụ phí là một cách đưa giá chính thức về gần giá trị thực của thị trường. Cơ chế này làm cho người ta phải nói dối.

Thứ hai, nhà nhập khẩu không thể không có USD. Họ huy động trên thị trường chợ đen hoặc vào ngân hàng mua với giá thỏa thuận có phụ phí. Nay bị chặn cả hai đường, gây khó khăn và tăng chi phí giao dịch nhưng thị trường sẽ tìm ra một ngách khác để xoay ra USD.

Có điều, NHNN đã không tính đến chi phí doanh nghiệp bỏ ra về thời gian và tiền bạc chỉ để đi săn USD, chưa kể còn tạo cơ hội cho một số người trục lợi, thể hiện cả bên ngoài và bên trong.

Cho nên tất cả các biện pháp cấm đoán đó không phải là cách lâu dài. Cách lâu dài, cơ bản là phải thu hẹp khoảng cách giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá tự do. NHNN cứ im lặng như hiện nay không có động thái gì sẽ tạo ra độ bất định trên thị trường, khiến người ta đoán già đoán non dẫn đến hành xử không như mong muốn, tạo ra sự thiếu USD rất giả tạo.

(Ông Vũ Thành Tự Anh, Giám đốc nghiên cứu Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright)

  • Phan Hùng
  • source
  • http://www.vietnamnet.vn/kinhte/2009/07/860290/

Sunday 26 July 2009

Google - thương hiệu 100 tỉ USD đầu tiên thế giới

Chủ Nhật, 26/07/2009, 11:44

Google - thương hiệu 100 tỉ USD đầu tiên thế giới

TTO - Google có giá trị thương hiệu cao hơn Microsoft 25%, lập kỉ lục trở thành thương hiệu đầu tiên thế giới ước tính có trị giá vượt ngưỡng 100 tỉ USD.

Theo bảng xếp hạng top 100 thương hiệu mạnh nhất toàn cầu mới do Công ty tư vấn - nghiên cứu thị trường Millward Brown Optimor và tạp chí Financial Times công bố, Microsoft xếp hàng thứ 2, nhưng thương hiệu này chỉ khoảng 76,2 tỉ USD.

Lần đầu tiên hãng sản xuất nước ngọt hàng đầu thế giới Coca-Cola lên vị trí thứ 3 với trị giá thương hiệu ước tính 67,6 tỉ USD.

Bất kể bối cảnh u ám của nền kinh tế thế giới, giá trị thương hiệu của top 100 tên tuổi lớn nhất trên thế giới vẫn tăng lên 2% so với năm ngoái, đạt 2 nghìn tỉ USD - mức tăng trưởng biên là 1,7%.

Sau hơn 10 năm khởi nghiệp, thương hiệu Google đã vượt ngưỡng 100 tỉ USD và dẫn đầu thế giới.

Ngày càng nhiều người dùng sở hữu iPhone và BlackBerry nên nhu cầu dịch vụ dữ liệu tăng mạnh, đó là lí do vì sao lần đầu tiên Vodafone gia nhập vào danh sách top 10, tăng 45% giá trị thương hiệu trong năm qua.

Để đánh giá một thương hiệu nào đó, các nhà phân tích dựa vào 3 yếu tố: lợi nhuận doanh nghiệp nhờ vào thương hiệu, số lợi nhuận được xem là chỉ nhờ vào thương hiệu và các thương hiệu phụ - nguồn lợi nhuận tiềm năng.

Đáng ngạc nhiên là mức tăng trưởng của Google chỉ nhờ hầu hết vào một sản phẩm duy nhất là công cụ tìm kiếm trứ danh, hoàn toàn khác với những “ông lớn” trong ngành công nghệ. Xem chi tiết bản báo cáo tại đây.

NHẬT VƯƠNG (Theo Thenextweb)

source

http://nhipsongso.tuoitre.com.vn/Index.aspx?ArticleID=328457&ChannelID=16

Friday 24 July 2009

Lo ngại tiền đồng mất giá?

Lo ngại tiền đồng mất giá?

Đôla Mỹ

Một trong các quan tâm của người dân và các doanh nghiệp là dự trữ bằng loại tiền gì

Hãng tin tài chính Bloomberg hôm 22/7 có bài phản ánh thực trạng tiền đồng của Việt Nam mất giá ở mức kỷ lục so với đôla Mỹ - với 1đôla Mỹ đổi được 17860 đồng.

Hãng này trích lời Tổng giám đốc một ngân hàng lớn nói về điều được mô tả là tình huống đáng lo ngại khi mọi người quay lưng lại với tiền đồng và giữ các tài sản khác trong đó có đôla.

Trong khi đó hiện cũng có quan ngại lạm phát có khả năng tăng lại trong giai đoạn từ nay tới cuối năm.

Vậy các quan ngại này có cơ sở hay không? Đài BBC đã đặt câu hỏi này cho tiến sĩ Vũ Thành Tự Anh, Giám đốc nghiên cứu của Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright tại VN:

Ts Vũ Thành Tự Anh: Thực ra thì đồng tiền Việt trong năm 2008 bị giảm giá khoảng 10% - tức là so thời điểm từ cách đây một năm với hiện tại thì đồng Việt Nam bị giảm giá gần 10% so với đồng đôla. Như vậy, rõ ràng là giảm giá gần 10% so với mức độ lạm phát thì nó không phải là quá cao.

Tuy nhiên, điều tôi nghĩ các doanh nghiệp và người dân lo lắng là tương lai của đồng tiền trong sáu tháng cuối năm và trong năm sau sẽ như thế nào? Tâm lý của người có thu nhập, những người có tiền, là họ phải quyết định giữ đồng tiền đấy dưới dạng nào?

Một trong các hình thức giữ tiền là dưới dạng đôla. Thế thì nếu đồng tiền VN tụt giá quá nhiều so với đồng đôla thì họ sẽ chuyển sang tiền đôla.

Tiến sĩ Vũ Thành Tự Anh (ảnh VNN)

Tiến sĩ Tự Anh là giám đốc chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright tại VN

Còn tâm lý quay lưng lại với đồng tiền Việt thì tôi nghĩ cũng không hoàn toàn chính xác, bởi vì nếu nhìn vào tốc độ tăng trưởng tiền gửi tiết kiệm bằng tiền đồng thì vẫn cứ tăng chứ không phải là giảm, tức là không có hiện tượng người ta rút tiền đồng ra để sau đó đi mua đô một cách ào ạt. Chuyện đó chúng ta chưa thấy.

Còn nhìn về khu vực doanh nghiệp thì có một hiện trạng là các doanh nghiệp xuất khẩu khi xuất khẩu thu được tiền đô thì muốn giữ tiền đô chứ không muốn bán cho ngân hàng, với lý do một phần là sợ rủi ro về tỉ giá, thứ hai nữa là bản thân họ cũng phải dùng tiền đô đấy để đi nhập khẩu. Tức là nhà xuất khẩu đồng thời lại là nhà nhập khẩu, chứ không phải có riêng một cái nhóm gọi là nhà nhập khẩu hay nhà xuất khẩu.

Vì sự chênh lệch giữa tỉ giá chợ đen (phi chính thức) và tỉ giá chính thức nó lớn đến như vậy và đang có xu hướng càng ngày càng dãn ra, thì lập tức người ta phải phòng vệ thôi. Tôi nghĩ cái việc mà người ta hay gọi là găm giữ tiền đô thì nó là cái việc rất là bình thường với chế độ hai giá như hiện nay.

BBC:Câu hỏi lớn hơn là giá trị của tiền đồng từ nay cho tới cuối năm, nhiều người cũng liên hệ tới việc mất giá tiền đồng với khả năng lạm phát mà thậm chí có người nói rằng có thể lên tới gấp đôi so với sáu tháng đầu năm thì điều này có cơ sở hay không?

Ts Vũ Thành Tự Anh: Tôi nghĩ là tỉ giá giữa đồng VN với đồng đôla phụ thuộc vào mấy yếu tố. Thứ nhất, nó liên quan tới cán cân thương mại, cán cân ngoại thương. Nếu chúng ta nhập siêu nhiều, rõ ràng nó sẽ ảnh hưởng không tốt đến tỉ giá này theo hướng là nó sẽ làm cho đồng tiền Việt Nam mất giá hơn.

Thực tế là trong sáu tháng đầu năm nay, tỉ lệ nhập siêu ở Việt Nam giảm rất đáng kể so với nửa đầu năm ngoái. Nếu thời điểm này của năm 2008, nhập siêu của Việt Nam là khoảng độ 30-35% của GDP, thì đến thời điểm này là trên 500% GDP, tất nhiên là chúng ta tính ở đây là tính cả vàng - loại vàng ra thì nó ở khoảng độ gần 15%.

Tức là cán cân thương mại được cải thiện. Thế nên sức ép đối với tiền đồng ở góc độ này là không cao.

Nếu như quĩ đạo chính sách hiện nay vẫn được tiếp tục thì có nguy cơ đến năm 2010 lạm phát sẽ quay trở lại, và có thể sẽ dẫn tới tình huống của năm 2007, tức là lạm phát cao, sau đó các doanh nghiệp và các ngân hàng phải đua nhau tăng lãi suất, và điều đó sẽ dẫn tới nền kinh tế quá nóng...

Ts Vũ Thành Tự Anh

Tuy nhiên đứng dưới góc độ khác, một là lạm phát và hai là chính phủ vẫn tiếp tục thực hiện chính sách tiền tệ và tài khóa nới lỏng, tôi cho là tỉ lệ lạm phát, chỉ số CPI trong mấy tháng cuối năm chắc chắn sẽ cao hơn so với đầu năm, đó là chuyện chắc chắn. Chỉ có điều cao hơn bao nhiêu, thì có nhiều mô hình và các cách tính toán khác nhau.

Nhưng tôi sẽ không ngạc nhiên nếu đến cuối năm nay, con số CPI trung bình ở VN ở vào khoảng 7,8%. Nếu mà nói trên 10 hoặc 15% - thậm chí có một số nhà nghiên cứu dự báo tới 25% - thì tôi nghĩ là không có cơ sở. Một cái mức nào đó trên dưới 10% - không quá xa 10% - thì tôi nghĩ là một kỳ vọng hợp lý.

Vấn đề thứ hai là chính sách nới lỏng tiền tệ và tín dụng, như tôi hiểu hiện nay chính phủ đã bắt đầu lo ngại về lạm phát. Thế nên chính phủ đã bắt đầu có chính sách hạn chế dần tín dụng và đặc biệt là có những khuyến cáo, ví dụ hạn chế tín dụng tiêu dùng, hạn chế thị trường tín dụng và bất động sản, chứng khoán…vv..

Tôi nghĩ đây là những định hướng chính sách đúng đắn. Chỉ có điều nó được thực hiện như thế nào, hiệu quả ra sao, chúng ta chưa thể khẳng định được ở thời điểm này mà phải chờ xem.

BBC:Việc tiền đồng của VN mất giá thì cũng có lợi cho xuất khẩu đúng không ạ?

Ts Vũ Thành Tự Anh: Đúng thế, về nguyên tắc khi tiền đồng của VN mất giá thì nó sẽ tăng cao được khả năng cạnh tranh của sản phẩm xuất khẩu Việt Nam. Tuy nhiên, nên lưu ý là điều này chỉ đúng khi tỉ giá hiệu dụng - tức là tỉ giá sau khi điều chỉnh mức độ lạm phát - phải được tăng lên.

mẫu tiền polymer VN

Ông Tự Anh nói mức độ mất giá của tiền đồng hiện nay chưa đáng lo ngại

Bởi vì nếu chúng ta chỉ nói tỉ giá thuần túy, nó không đúng với bản chất kinh tế. Mà chúng ta phải tính tỉ giá sau khi điều chỉnh lạm phát. Thế nên nếu như đồng tiền Việt Nam mất giá, ví dụ 5%, mà lạm phát của Việt Nam lại trên 5% thì nó cũng không giúp được gì cho nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng xuất khẩu VN cả.

Tỉ giá đồng tiền là một chuyện, nhưng cái tỉ lệ lạm phát phải thấp hơn tốc độ mất giá, thì lúc đấy nó mới có tác dụng.

BBC:Và nếu dựa trên một số biện pháp khống chế lạm phát của VN từ năm ngoái tới nay thì tính hiệu quả của các biện pháp này như thế nào?

Ts Vũ Thành Tự Anh: Tôi nghĩ khi chính phủ bắt đầu thắt chặt tín dụng, thắt chặt cung tiền và giảm đầu tư công vào quí ba năm 2008 thì tác dụng của nó hầu như thấy ngay lập tức.

Tức là khi chính phủ hành động với những định hướng chính sách đúng đắn, cụ thể là thắt chặt tín dụng, thắt chặt tiền tệ, giảm đầu tư công và tăng lãi suất thì lập tức CPI của VN giảm.

Đến thời điểm này, CPI của tháng 6/2009 so với tháng 6/2008 chỉ ở mức khoảng 5% thôi, và nếu tính trung bình của sáu tháng đầu năm thì CPI trung bình ở khoảng độ 10.25% gì đó, là ở mức mà tôi nghĩ hoàn toàn có thể kiểm soát được.

Và nếu chiều hướng này còn tiếp tục, cộng với cả ngân hàng nhà nước bắt đầu giảm bớt tín dụng, đặc biệt là khuyến cáo các ngân hàng thương mại là không tăng tín dụng cho vay bất động sản và chứng khoán tiêu dùng quá mức, tôi nghĩ tỉ lệ CPI của VN trong năm nay sẽ dừng ở mức độ kiểm soát được.

Tuy nhiên, phải nói thêm, nếu như quĩ đạo chính sách hiện nay vẫn được tiếp tục, có nguy cơ là đến năm 2010 lạm phát sẽ quay trở lại, và có thể sẽ dẫn tới tình huống của năm 2007, tức là lạm phát cao, sau đó các doanh nghiệp và các ngân hàng phải đua nhau tăng lãi suất, và điều đó sẽ dẫn tới nền kinh tế quá nóng như năm 2007.

Nếu chúng ta hạn chế và kiểm soát tín dụng tốt từ bây giờ thì sẽ không lặp lại chuyện đó, còn nếu như quỹ đạo chính sách hiện nay, với tăng trưởng tín dụng rất nhanh, 5-7%/tháng như hiện nay, nguy cơ quay trở lại tình huống năm 2007 là hoàn toàn có thể.

Source

BBC Vietnamese

Nhiều doanh nghiệp Nhà nước ngập trong nợ nần

Nhiều doanh nghiệp Nhà nước ngập trong nợ nần

Dù được đánh giá là vẫn "ăn nên làm ra" trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế toàn cầu, song theo kết quả kiểm toán năm 2008 tổng số nợ của các doanh nghiệp Nhà nước vẫn lên tới 181.000 tỷ đồng.

Năm 2008, Kiểm toán Nhà nước đã thực hiện 135 cuộc kiểm toán tại 35 tỉnh thành, 20 Bộ, 23 tập đoàn kinh tế và nhiều tổng công ty và tổ chức tài chính... Kết quả kiểm tra của 224 đơn vị thành viên thuộc 16 tập đoàn tổng công ty, số doanh nghiệp làm ăn thua lỗ chiếm gần 10%.

Tổng số nợ của các doanh nghiệp Nhà nước là 181.000 tỷ đồng. Ảnh: Hoàng Hà.

Một số đơn vị thua lỗ nhiều trong năm 2006 là Tổng công ty Sông Hồng và Tổng công ty Xây dựng Trường Sơn, với số tiền 57,7 tỷ đồng. Tổng công ty lắp máy VN lỗ lũy kế đến tháng 12/2007 là 23,4 tỷ đồng, Tổng công ty xây dựng Sài Gòn lỗ 90,4 tỷ đồng, tổng công ty xây dựng công trình giao thông 8 - 93,4 tỷ đồng và Tổng công ty xây dựng công trình giao thông 5 lỗ 102,7 tỷ đồng...

Các tổng công ty khác như Khánh Việt, Địa ốc Sài Gòn, tuy số lãi theo báo cáo, trên 600 tỷ đồng, nhưng số nợ phải trả hơn 4.600 tỷ đồng, chiếm lần lượt là 40 và hơn 60% tổng nguồn vốn. Như vậy, mặc dù lợi nhuận trước thuế, theo báo cáo của kiểm toán, đạt gần 1.800 tỷ đồng, nhưng số nợ phải trả quá lớn.

Tính đến hết tháng 12/2007, tổng số nợ phải thu của các doanh nghiệp nhà nước được kiểm toán là 32.409 tỷ đồng. Tỷ lệ bình quân phải thu trên tổng tài sản là 10,8% và trên vốn chủ sở hữu là 29,03%. Và tính đến hết năm, tổng số nợ mà các doanh nghiệp Nhà nước phải trả là trên 181.000 tỷ đồng, trong đó tỷ lệ nợ phải trả trên tổng nguồn vốn bình quân hơn 60%.

Theo Phó tổng kiểm toán Nhà nước - Lê Minh Khái, các khoản nợ của tập đoàn và tổng công ty Nhà nước trên không đáng lo ngại và vẫn bảo toàn được vốn nhà nước nhờ mở rộng sản xuất và đa dạng hóa sản phẩm. Trong đó, Tập đoàn Điện lực được coi là doanh nghiệp nhà nước hoạt động đa ngành với tổng lợi nhuận trước thuế đạt cao nhất với 4.400 tỷ đồng.

Đối với các tổ chức tài chính, ngân hàng, trong năm 2008, Kiểm toán Nhà nước đã kiểm toán báo cáo tài chính tại 162 đơn vị thành viên, chi nhánh trực thuộc của 7 tổ chức tài chính, ngân hàng, bảo hiểm. Kết quả cho thấy, hoạt động cho vay tại các ngân hàng thương mại nhà nước vẫn còn vượt nhu cầu vốn của khách hàng, cho vay không đúng đối tượng, trích lập dự phòng rủi ro không chính xác… Ngoài ra, việc quản lý và theo dõi công nợ giữa hội sở chính và các chi nhánh còn chưa kịp thời và nhầm lẫn… Nguyên nhân là các ngân hàng phân loại nợ vẫn mang tính chủ quan, các chi nhánh chỉ căn cứ kế hoạch tài chính, quỹ tiền lương được duyệt để điều chỉnh nhóm nợ và trích lập dự phòng rủi ro tín dụng.

Một điểm đáng chú ý trong báo cáo kiểm toán năm 2008 là hầu hết các báo cáo tài chính của các doanh nghiệp, tổ chức tài chính, ngân hàng... bị sai lệch, không phản ánh đúng thực tế tài sản, chi phí, doanh thu và kết quả kinh doanh của các đơn vị này.

Sai phạm vẫn tập trung vào những “ông lớn” như Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), Tập đoàn Than - Khoáng sản Việt Nam (TKV), Tổng công ty Hàng hải (Vinalines), Tổng công ty Lắp máy Việt Nam (Lilama), Tổng công ty Bia - Rượu - Nước giải khát Sài Gòn (Sabeco)…

Hồng Anh

source

http://vnexpress.net/GL/Kinh-doanh/2009/07/3BA119A4/

Lần theo mê-lộ có đường hầm của Hệ Thống Tiền Tệ Mỹ


Lần theo mê-lộ có đường hầm của Hệ Thống Tiền Tệ Mỹ

B.S. Nguyễn Lưu Viên, Jul 22, 2009 Lời nói đầu: Cả năm qua báo chí Mỹ thường hay nói tới việc mất giá của đồng dollar, tới việc mắc nợ của chánh phủ Mỹ, rồi hay nhắc tới Federal Reserve, và tới tên của Ông Greenspan. Tôi không có học ÉcoPo của Pháp, không có học MBA của Mỹ nên mù tịt. Nhưng vì tò mò muốn hiểu biết, nên tôi đã cố gắng tìm tòi, học hỏi đó đây. Thì mới thấy rằng vấn đề tiền tệ của Mỹ là cả một mê-lộ có đường hầm, (un vrai labyrinthe avec des souterrains) một con đường máng dện chằng chịt mà nếu đi không có bản chỉ dẫn thì sẽ dễ bị lạc.

Rồi tôi nghĩ rằng trong số độc giả của Y Tế Nguyệt San chắc cũng có một ít bạn đọc mù tịt như tôi, nhưng không có thì giờ để nghiên cứu đó đây như tôi, nên tôi viết bài này tóm lược và giản-dị -hóa tối đa một vấn đề vô cùng phức tạp đã kéo dài theo lịch sử của Hoa-kỳ, để giúp phần nào các bạn ấy hiểu sơ sơ vấn đề về đồng dollar là một thực thể mà mình phải đốí phó hằng ngày. Tôi sẽ dùng phương pháp hỏi và đáp (H & Đ) để dẫn đường quý bạn đi trên mê lộ và trong đường hầm ấy.

Tôi xin lưu ý quý bạn: Vì trong bài có vài ba cụm-từ được nhắc đi nhắc lại nhiều lần nên tôi sẽ viết tắt các cụm từ ấy như sau: FED là Federal Reserve, CPLB là Chánh Phủ Liên Bang, HCQHK là Hiệp Chủng Quốc Hoa-Kỳ USA và T.T. là Tổng Thống.

I- Tạo ra tiền (create money).

H-: Dollar là tiền chính thức của HCQHK. Vậy ở bên Mỹ cơ quan nào có quyền phát hành dollar?
Đ-: Câu trả lời tự nhiên và thông thường mà cũng hợp lý là Bộ Tài Chánh của CPLB. Nhưng trên thực tế thì không hẳn như vậy. Bộ Tài Chánh của CPLB chỉ có quyền phát hành “coins” nghĩa là đúc (mint) các đồng tiền One Cent, Five Cents, One Dime, One Quarter, và một số đồng tiền One Dollar.
H-: Vậy thì cơ quan nào có quyền phát hành giấy xanh dollar?
Đ-: Chỉ có Federal Reserve (FED) mới có quyền phát hành giấy xanh dollar.
H-: Tôi thấy trên giấy xanh dollar nào cũng có hình của một ông Tổng Thống Mỹ, cũng có chữ ký tên của “Treasurer of the United States”, và của “Secretary of the Treasury” mà không phải do Department of Treasury của CPLB phát hành là gì ?
Đ-: Vâng, coi vậy mà không phải vậy. Trên giấy xanh dollar nào cũng có in hàng chữ “Federal Reserve Note” mà chữ note ở đây có nghĩa là “ a paper acknowledging a debt and promising payment; promissory note”. Tức là tờ giấy xanh dollar nào cũng là một tờ giấy nợ.
H-: Ai nợ ai?
Đ-: Chánh Phủ Liên Bang nợ FED.
H-: Sao lại có chuyện đó?
Đ-: Số tiên CPLB cần luôn luôn nhiều hơn số tiền thuế của dân đóng góp, nên CPLB phải mượn. Mượn ai? Mượn FED là cơ quan duy nhứt có quyền phát hành tiền dollar. Mượn bằng cách nào? Bằng cách cho phép Bộ Tài Chánh (The Treasury Department) in giấy nợ dưới hình thức “Federal Bonds” (là giấy IOU I Owe You) trong đó chánh phủ cam kết sẽ trả lại với tiền lời) (mà bách-phân lời % interest) là do FED. chủ nợ, quyết định). FED chấp nhận và in (thí dụ như một tỷ dollars $1 billion) đưa cho chánh phủ. Thế là chánh phủ (tức là quốc gia, là dân Mỹ) nợ FED một tỷ dollars với tiền lời. Rồi mỗi năm tiền nợ đó chồng chất lên nên đến năm 1995 số tiền nợ là $5 trillion (1 trillion là 1 ngàn tỷ) và đến ngày 16-3-2006 là hơn $8,21 trillion.
H-: FED là một cơ quan của Liên Bang, vậy CPLB mà nợ FED thì có khác gì là “Tôi nợ Tôi”.
Đ-: Khác, vì FED là một cơ quan mang tên là “Liên Bang” (Federal) nhưng không phải của Liên Bang. FED là một công-ty độc lập của tư-nhân (a corporation independent privately owned).
H-: Privately owned thì ai own nó?
Đ-: Federal Reserve (FED) gồm có 12 cái Fed bank địa phương (twelve regional federal reserve banks) mỗi cái là sở-hữu của những nhà bank buôn bán tư thành viên của cái Fed địa phương đó Các Fed địa phương có trụ sở ở: 1- Boston, 2-New York, 3-Philadelphia, 4-Cleveland, 5-St Louis, 6-San Francisco, 7-Richmond, 8-Atlanta, 9-Chicago, 10- Minneapolis, 11- Kansas City và 12-Dallas.

Fed Bank của New York có đa số cổ phần (53% of shares). Mà trong Fed bank của New York, Citibank và J.P.Morgan Chase Co nắm đa số cổ phần. Citibank là của gia-đình Rockefeller và J.P. Morgan Chase Co là của gia-đình Morgan. Hai gia đình này và gia đình Carnegie với gia đình Rothschild là thành phấn quan trọng nhứt của một nhóm người mà học giả Mỹ gọi là “the Robber Barons” (những Nam-tước Trộm Cắp).

H-: Nhưng trong Ban Quản Trị (Board) của FED ở Washington có Ông Tổng Trưởng Tài Chánh (the Treasury Secretary) và Ông Giám Sát Ngân Khố (the Comptroller of Treasury) là nhân viên chánh phủ.

Đ-: Vâng, vì vậy mà trên các giấy xanh dollar có chữ ký tên của hai ông này. Và T.T. Mỹ cũng bổ nhiệm (với sự chấp thuận của Senate) ông Chủ Tịch Hội Đồng Quản Trị (Chairman of The Governing Board) của FED, cho nên FED được coi như là một cơ-quan “gần như chính thức” ( quasi-governmental). Hội Đồng này gồm có 7 người, với nhiệm kỳ là 14 năm, mà Tổng Thống chỉ có quyền thay thế một người mỗi hai năm.

Như vậy, thí dụ như có một ông T.T. muốn sữa đổi FED theo ý của ông, thì trong nhiệm kỳ 4 năm của T. T, ông chỉ thay thế được có 2 người (vì ông chỉ có quyền thay thế một người mỗi 2 năm.) Thôi thì cho rằng ông ấy là một ông T. T. tài ba lổi lạc, vượt qua được những khó khăn và những chống đối mà ông đã gây ra (vì quan niệm muốn sửa đổi FED), trong hàng ngũ dân-biểu và nghị sĩ của cả hai đảng, trong chính trường và trong media, để ông được đắc cử một nhiệm kỳ thứ hai, thì ông sẽ bổ nhiệm được 2 người nữa trong Governing Board (nếu được the Senate chấp thuận) thì cho đến gần cuối nhiệm kỳ 2, ông mới đưa ra được một dự luật sửa đổi, mà chưa chắc dự luật ấy sẽ có được số phiếu cần thiết ở hai viện để trở thành một đạo luật trước khi ông phải rời khỏi Nhà Trắng.

Mặt khác ban Quản Trị (Board) không kiểm soát được cả 12 Fed bank địa phương và các Fed bank địa phương phải theo chánh sách của Fed Bank New York nắm đa số cổ phần. Vả lại FED kể từ khi thành lập cho tới nay, chưa bao giờ bị chánh phủ “audit”( soát xét ) vì năm 1975 dự luật (bill) H.R.4316 cho phép chánh phủ “audit” FED, được đưa ra Congress, nhưng dự luật không qua được vì không đủ phiếu.

Hãy xem như ông Alan Greenspan đang làm giám đốc công ty (corporate director) cho J.P. Morgan, thì được T.T. Reagan bổ nhiệm năm 1987 làm Chủ Tịch của FED, giử chức đó gần 19 năm, đến năm 2006 dưới thời T.T.George W. Bush mới về hưu. Nghĩa là đã làm Chủ Tịch Hội Đồng Quản Trị FED với bốn T.T. mà trong lúc tại chức ông không bao giờ có họp báo, không bao giờ cho phỏng vấn, tức là không có việc hỏi han chất vấn lôi thôi.

H-: Trở lại đồng dollar. Bây giờ tôi mới biết rằng CPLB chỉ có quyền đúc coins, còn quyền phát hành giấy xanh là của FED, mà FED thì bị các nhà bank tư nắm. Vậy trong tổng số tiền của Mỹ, tỷ-lệ của mỗi thứ tiền là bao nhiêu?

Đ-: Tiền coin của CPLB đúc chỉ là lối một phần ngàn tổng số tiền của Mỹ, cộng với tổng số tiền giấy xanh của FED phát hành, thành ra cái được gọi là “tiền sờ thấy được” (tangible currency) chỉ có lối 10% tổng số tiền được cung cấp (American Money Supply)

H-: Sao kỳ vậy? Còn 90% kia là tiền gì ở đâu ra?
Đ-: Phần 90% còn lại là tiền ma (phantom money).
H-: Tiền ma là tiền gì?
Đ-: Là tiền không có thật, là tiền được tạo ra từ chỗ không có gì hết (money created from nothing), do cái trò ảo-thuật cho vay (gọi là “loan”) tạo ra.
H-: Thật sự tôi không hiểu được.
Đ-: Thực ra thì cũng không có gì khó hiểu cho lắm. Trò ảo thuật tạo ra tiền từ con số không (create money out of nothing) dựa trên cái gọi là “fractional reserve banking” do đạo-luật tạo ra FED (Federal Reserve Act) cho phép. Theo đó thì khi mà nhà bank có trong kho của nó một số tiền X là tiền thật (hồi xưa là vàng, bây giờ là giấy xanh) được coi như là để dự-trữ (reserve), thì nó có quyền phát ra 10 X (tức là có 9 X tiền ma, không có bảo đảm reserve).

Thí dụ như tôi gởi vào nhà bank trong checking account của tôi $ 10,000 thì nhà bank để số tiền đó trong kho của nó như reserve, và nó có quyền phát ra $100,000 (tức là trong đó có $ 90,000 là tiền ma, vì không có reserve bảo đảm) Cũng như thế, Anh B để vào bank trong saving account $ 20,000, thì nhà bank có quyền phát ra $200,000 (tức có $180,000 là tiền ma). Tổng cộng nhà bank có quyền phát ra $300,000 mà trong đó có $270.000 là tiền ma. Rồi khi Anh C đến mượn nhà bank $300,000 (để mua nhà, sửa nhà hay làm gì khác) thì nhà bank cho ảnh mượn (dưới hình thức loan) $300,000 đó. Anh C sẽ trả cho nhà bank số tiền đó cộng với lời (x %) dưới hình thức mortgage hằng tháng, trong 15 hoặc 30 năm chẳng hạn, bằng tiền dollar thật, mà Anh C có được nhờ lương của Anh C, hoặc nhờ việc làm (như phòng mạch) của Anh. Tức là nhà bank, nhờ cái ảo-thuật của “loan” đã “create money out of nothing”.

Thí dụ trên là lấy cá nhân A, B, C làm mẫu, nên chỉ nói tới tiền với con số ngàn, nếu là nhà buôn, là nhà hàng, là hãng, là cơ sở sản xuất, thì tiền phải là tới số triệu. Mà cả HCQHK có hằng bao nhiêu triệu cá nhân, nhà buôn, hãng, xưởng v.v. cân tiền và phải vay tiền của nhà bank dưới hình thức “loan” thì không có gì lạ khi thấy rằng trong tổng số tiền cung cấp cho nền kinh tế Mỹ (american money supply) năm 2005 là $9.7 trillion trong đó tiền thật (tangible currency) chỉ có $ 1.4 trillion, còn $8.3 trillion là tiền ma. Và sau này nguyên tắc đó cũng được áp dụng cho việc dùng credit card (Visa, Master Card, American Express v.v.) với một lải xụất (% interest) còn cao hơn gắp bội.

II- Một chút lịch sử.

H-: Từ đâu, tại sao, và từ hồi nào mới có cái quái thai đó?
Đ-: Anh nói là “quái thai” thì cũng đúng, nhưng học giả Mỹ thường ví FED như một con “Hydra”. Theo từ-điển Hydra là một con rắn có chín đầu (trong thần thoại) hể chặt đầu này thì nó mọc đầu khác, và nó có nhiều cái vòi (tentacles) rất dài để bắt mồi từ xa. FED (con hydra dưới hình thức hiện tại) sanh ra nhờ cái Federal Reserve Act năm 1913 do Tổng Thống Woodrow Wilson ký (về sau ông hối tiếc). Còn từ đâu và tại sao có nó, thì phải xem lại hết cái lịch sử của HCQHK vì trong dĩ vãng nó cũng đã bị chặt đầu nhiều lần, mỗi lần lại sống lại với một tên khác.
H-: Anh có thể tóm tắt cho chúng tôi biết một chút không?
Đ-: Tôi sẽ cố gắng tóm lược tối đa một câu chuyện dài mấy thế kỷ và chiếm vài trăm trang trong mỗi sách nói đến chuyện ấy mà tôi có dịp đọc.

Ở Trung học chúng ta học trong sách rằng HCQHK hồi xưa là 13 thuộc địa của Anh-quốc. Đến năm 1774, để phản đối việc mẫu-quốc Anh đánh thuế vào trà (tea tax) một buổi tiệc trà được tổ chức ở Boston (Boston Tea Party). Trong dịp đó một số người Mỹ giả làm người Da-đỏ nhảy lên tàu chở trà và vất các thùng trà xuống biển. Bị chánh quyền cai trị đàn áp, những đòan dân quân được thành lập để chống trả lại, và Ông Benjamin Franklin triệu tập một Hội Nghị gọi là Congress ở Philadelphia để đưa ra “Bản Tuyên Ngôn Quyền Của Người Mỹ Có Đóng Thuế” (Delaration des Droits du Contribuable Americain) năm 1774. Sau đó, với sự chiến thắng của đoàn dân quân của Massachusetts, Congress cho ra Bản Tuyên Ngôn Độc Lâp (Déclaration d’Indépendance ngày 4-7-1776.) Rồi dưới sự chỉ huy của Tướng George Washington, quân Mỹ đánh thắng quân Anh dưới quyền Tướng Cornallis ở Georgetown năm 1781, và theo Hòa Ước Versailles năm 1785 Anh-Quốc công nhận cho HCQHK độc lập.

Nhưng sau này một số học giả, sau khi đọc kỹ lại những tác phẩm của chính ông Benjamin Franklin viết hồi thời ấy, mới thấy là sự thật phức tạp hơn nhiều.

1-Vì không có tiền vàng hay bạc, nên kể từ năm 1691, các thuộc địa của Anh trên đất Mỹ phát hành tiền giấy gọi là “Colonial Scrip” để trả lương cho công chức và để cho dân xài trong việc mua bán trao đổi hàng hóa trả tiền công v.v. Mà người chủ nhà in lại chính là Ông Benjamin Franklin, người làm việc cho dân, vì dân, không tìm cái lời cái lợi trong việc in giấy bạc nên chỉ phát hành đúng theo nhu cầu, cần bao nhiêu thì phát hành bấy nhiêu, nên không cần lấy thuế của dân để chánh phủ có tiền, mà không tạo ra sự lạm phát (inflation) hay sự kém phát (deflation) nên giá vật và giá công (product and service) vẫn được đều hòa và thăng bằng, nhờ vậy mà các thuộc địa trở nên rất phồn thịnh, không có thất nghiệp, không có ăn mày, trong lúc mà ở London của mẫu-quốc ngoài đường có đầy ăn mày và người đi lang thang lêu lổng (The streets are covered with beggars and tramps). Thì các chủ nhà bank Anh (the British bankers) lobby triều đình, nên năm 1751, vua George II ra lệnh cấm các thuộc địa phát hành tiền giấy, mà phải dùng tiền “coins” của mẩu-quốc (do các nhà bank Anh đã hợp thành một thể dưới tên là Bank of England phát hành). Vua George III kế vị vua cha từ năm 1752 giữ nguyên lệnh ấy. Thì các thuộc địa bị ảnh hưởng tai hại. Vì thiếu tiền coins (do mẩu quốc siết để tạo sự kém phát deflation), người làm ruộng hay trồng tỉa không có đủ tiền mướn người làm nên lúa không ai gặt, trái không ai hái. Người có hãng xưởng không đủ tiền mướn thợ, hàng hóa không được sản xuất. Cả dân trong một vùng đất rộng lớn của 13 thuộc địa bị nghèo đói không gia đình nào không bị ảnh hưởng, nên họ đứng lên chống đối chánh quyền và đó là nguyên do sâu xa của cuộc Cách Mạng Mỹ năm 1774. Cái”Boston Tea Party” chỉ là giọt nước làm tràn cái bình.

2- Việc đầu tiên Congress làm là phát hành tiền giấy được gọi là “the Continental” dưới hình thức IOU (I owe you.) nghĩa là giấy nợ mà Chánh Phủ Cách Mạng cam kết sẽ trả lại bằng tiền coins (vàng hay bạc) sau này. Lối chừng 200 triệu dollars dưới hình thức “continental scrip” được phát hành để chi phí cho cuộc chiến giành độc lập. Thì mẫu quốc phản ứng bằng cách in tiền giả để đổ ào ạt vào thị trường các thuộc địa, gây ra môt cuộc đại-lạm-phát, làm cho đến ngày độc lập tiền “the Continental” hầu như không còn giá trị gì hết. Thế là mẫu-quốc thua trên chiến trường, nhưng thắng trên mặt trận kinh tế (dính liền với tài chánh).

3- Vì thấy tiền Continental gần như không còn giá trị, nên các nhà “Quốc Phụ Lập Quốc (the Founding Fathers), không còn tin tưởng nơi giấy bạc, nên trong Hiến Pháp được viết ra, các ngài không nói tới tiền giấy mà ghi rằng Congress có quyền “coin money” (thay vì “create money”) và có quyền vay tiền dựa trên uy tín của chánh phủ (“and to borrow money on the credit of the United States). Thì các nhà bank của mẫu-quốc Anh cũ, là các ngân hàng Anh quốc tư nhân; xâm nhập vào HCQHK tạo dựng US Bank theo mẫu của England Bank. Mà England Bank từ thời thành lập cho đến ngày hôm nay là do các nhóm tài phiệt tư nhân gốc gác Hòa-Lan (Amsterdam) nắm và chính các nhóm này xâm nhập vào hệ thống US Bank, khai thác lỗ hở to tát đó (the enormous loophole) mà nói rằng chiếu theo Hiến Pháp chánh phủ chỉ có quyền phát hành coins, và nhà bank có quyền phát hành tiền giấy. Vì tiền coins thì cồng kềng và quá nặng khi cần tới nhiều, nên nhà bank in giấy cam két sẽ trả lại đúng số coins (bằng vàng hay bạc) ghi trên giấy, thì dân chấp nhận coi những giấy ấy như là tiền.

4- Rồi với thời gian qua, các nhà bank để ý rằng rất ít người trở lại nhà bank để đòi lấy lại đồng tiền coins. Trung bình hằng năm chỉ có độ 10% người làm việc đó, còn 90% người còn lại thì không bao giờ thấy đến đòi lấy lại tiền coins. Thì nhà bank nghĩ rằng mình có thể phát hành thêm 90% nữa mà không sao. Đó là nguồn gốc của cái gọi là “fractional reserve” dẫn tới việc phát hành tiền ma.

5- Tổng Thống Thomas Jefferson (1801-1809) vị T.T. thứ ba của Mỹ thấy cái nguy hại cho đất nước và gọi liên đòan các nhà bank (the banking cartel) là ”một con quái vật ăn thịt ngưởi có cái đầu của con hydra” và Ông nói rằng “Nếu dân Mỹ để cho nhà bank kiểm soát việc phát hành tiền tệ của mình, thì trước hết bằng sự lạm phát (inflation) rồi bằng sự kém phát (deflation) các nhà bank và các công ty (corrporations) sẽ phát triển và tước đoạt hết tài sản của dân, thì con cháu chúng ta sẽ thức dậy vô gia-cư, trên cái lục địa mà cha mẹ của chúng đã chiếm được.” Nên năm 1811 Congress không chấp nhận tái bản cho đặc quyền (renew the charter) cho First U.S.Bank. Thì chiến tranh với Anh quốc (the War of 1812) bùng nổ. Chiến tranh đưa quốc gia đến sự lạm phát (inflation) và nợ nần (debt). Vì những lý do đó, Tổng Thống James Madison (1809-1817) vị T.T. thứ tư của Mỹ, phải ký một đặc quyền 20 năm (a twenty year charter) cho Second Bank of The United States vào năm 1816.

6- Tổng Thống Andrew Jacksaon (1829-1837) vị T.T. thứ 7 của Mỹ veto dự luật của Congress cho phép tiếp tục ban đặc quyền cho Second Bank of the United States. Trong bản veto Ông viết:” Không có cái gì nguy hại cho sự tự do và độc lập của chúng ta hơn là khi mà hệ thống nhà bank nằm trong tay của người ngoại quốc. Kiểm soát tiền tệ của chúng ta, lấy tiền của dân ta, và bắt giữ cả ngàn công dân của chúng ta phải lệ thuộc, thì còn đáng sợ hơn và nguy hiểm hơn là một thủy binh hay một quân đội của địch”.

Nhưng Ông cũng biết cái veto chỉ là bước đầu của cuộc chiến với nhà bank nên Ông nói: “ Con hydra của sự đồi bại mới bị chận lại chớ chưa chết”. Ông ra lệnh cho Ông Tổng Trưởng Tài Chánh (Treasury Secretary) mới của Ông, chuyển hết tiền deposits của chánh phủ từ Second US Bank qua các nhà bank của Tiểu Bang (state banks) thì ông này từ chối không làm. Ông T.T. cách chức ông ấy, và bổ nhiệm một người khác Ông này cũng từ chối không làm thì T.T. Jackson bổ nhiệm người thứ ba, Ông này thi hành lệnh nên T.T. Jackson vui mứng mà nói: “ Tôi đã trói được con quái vật rồi” Nhưng ông chủ nhà Bank, lobby được Senate không chấp thuận người được Tổng Thống bổ nhiệm và gây ra một cuộc khủng hoảng kinh tế với việc siết chặt sự cung cấp tiền, để tạo ra một sự kém phát (deflation) bằng cách hồi (call in) các “loan” cũ, không cho thêm “loan” mới, nên một sự hoảng hốt tài chánh (a financial panic) xẩy ra trong dân chúng, thì báo chí lại đổ tội vào đầu Tổng Thống Jackson. Nhưng may thay Ông Governor của Pennsylvania (là nơi có trụ sở của nhà bank) xuất hiện để ủng hộ T. T. Jackson và phê bình nhà bank rất gắt gao và kế hoạch làm lũng đọan kinh tế của nhà bank bị phơi bày trước công chúng.

Cho nên đến tháng 4- 1834 Hạ Viện (House of Representatives) với 134 phiếu thuận và 82 phiếu chống, đã hủy bỏ việc tái bản đặc quyền (rechartering) cho Second U.S.Bank. Đến tháng 1- 1835 thì T.T. Jackson trả được hết các nợ của chánh phủ. Rồi ngày 30-1- 1835, khi T.T. Jackson đến Capitol để dự tang lễ của Dân-biểu Warren R. Davis của South Carolina thì ông bị mưu sát bởi một tên thợ sơn “điên”(?) núp trong rotunda cách Ông có sáu feet bắn hai phát đều trật. Nhưng sau khi T.T. Jackson đóng cửa nhà bank trung ương (Central Bank) thì tiền giấy được dùng là những banknotes của của các nhà banks tư của các Tiểu Bang, hứa sẽ trả lại bằng vàng hay bạc chớ không phải là tiền của quốc gia (national currency).

7- Sau T.T. Jackson, ông tổng thống dám đánh con hydra tiền tệ là T.T. Abraham Lincoln (1861-1865), vị T.T. thứ 16 của Mỹ. Liền sau khi Ông đắc cử và trước khi Ông nhậm chức thì Nội Chiến Nam-Bắc (The Civil War) bùng nổ (1860) vì vấn đề “Nô-lệ” (Slavery). Các nhà bank của vùng Đông (tức là thuộc về Union) đề nghị cho chánh phủ vay $150 triệu với bách phân lời quá nặng từ 24 tới 26%. T. T. Lincoln từ chối và quyết định chánh phủ sẽ in tiền lấy. Tiền in ra có tên chính thức là “United Note’ nhưng dân chúng quen gọi là “Greenback” vì phía sau in bằng mực màu xanh lá cây. Tiền được quan niệm không phải là một giấy nợ (IOU) với cam kết trả lại bằng vàng hay bạc, mà là một tờ giấy chứng nhận công lao cho xã hội. Công lao sản xuất (product) từ lúa gạo, trái cây cho tới vải sồ và vật dụng, công lao dịch vụ (service) từ thợ, cai, đến giám đốc, công lao bảo vệ an ninh trật tự, và gìn giữ đất nước, từ lính cảnh sát đến lính và quan trong quân đội, công lao điều khiển bộ máy cai trị, từ thư ký đến giám đốc đến nguyên thủ quốc gia. Lãnh lương là lãnh giấy chứng nhận công lao, để mua thức ăn đồ dùng là trao giấy chứng nhận công lao của mình để nhận lấy món hàng được sản xuất với công lao tương đương của người bán.

Vì tiền được in ra vừa đúng nhu cầu của dân, cho dân, và vì dân, chớ không phải cho hay vì tư lợi nào hết, cũng như hồi thời Ông Benjamin Franklin lúc Hoa kỳ còn là 13 thuôc địa phồn thịnh, nên trong có bốn năm tại chức mà ngoài việc chiến thắng lọan Miền Nam được Anh giúp tiền, và việc giải phóng bốn triệu người nô lệ, T.T. Lincoln đã thực hiện cho nước Mỹ những công tác vĩ đại như: xây dựng và võ trang một quân đội lớn nhứt thế giới lúc bấy giờ, biến Hoa-kỳ thành một nước kỹ-nghệ khổng lồ (industrial giant), kỹ nghệ thép (steel industry) được thành lập, một hệ thống hỏa-xa xuyên lục-địa được xây dựng, Bộ Canh Nông được thành lập để thúc đẩy việc chế tạo máy và dụng cụ làm ruộng rẻ tiền, một hệ thống đại học miễn phí được thành lập nhờ Land Grant College System, lập lên những bộ máy hành chánh cho các vùng Miền Tây, tăng mức sản xuất lao động (labor productivity) lên từ 50 đến 75 %. Tất cả những việc ấy thực hiện được là nhờ có một việc rất giản dị là chính chánh phủ phát hành tiền. Tức là cái đầu của con hydra tiền tệ đã bị T.T.Lincoln chặt.

Nhưng đến ngày 14-4-1865, thì một kịch-sĩ tên là John Wilkes Booth ám sát T.T. Lincoln trong lúc Ông đang xem tuồng hát Our American Cousin trong rạp hát Ford’s Theatre ở Washington. Thế là con hydra lại có cơ mọc đầu lại. Và đầu nó mọc lại thật, vì dân vẫn thích có tiền vàng nên tiền greenback mất giá dần dần đối với đồng tiền dollar vàng. Thì các nhà bank phát hành banknotes bảo đảm trả lại bằng vàng. Dân chúng tin nên dùng những banknotes đó như tiền thật, cho tới năm 1913 thì một con hydra mới xuất hiện nhờ luật Federal Reserve Act 1913.

III- Tân hydra chào đời.

H- : Tai sao có Luật đó?
Đ-: Vì năm 1907 xẩy ra một cuộc “Kinh Khủng Tài Chánh” (a Financial Panic) nên năm 1908 T.T.Theodore Roosevelt (1901-1909), vị T.T. thứ26 của Mỹ, cho thành lập cái National Monetary Commission để chỉnh đốn vấn đề tài chánh. Chủ tịch của Commission đó là Ông Nghị Sĩ Nelson Aldrich (bên ngoại của David Rockefeller Sr.). Ông Aldrich dẫn cả commission đi tour sang Âu-châu để nghiên cứu trong vòng hai năm. Rồi khi trở về, Ông lập lên, một cách hòan tòan bí mật, một nhóm bị gọi là “The First Name Club” vì cấm triệt để không được nhắc tới Last Name để cho đầy tớ và người làm, dù có nghe trộm được cũng không biết là ai, để nói lại cho người ngoài và báo chí biết là có những ai. Nhóm đó gồm có một số người được chọn lọc rất cẩn thận trong giới tài chánh và ngân hàng. Trong số đó người sẽ đóng vai quan trọng nhất là Ông Paul Warburg (1868-1932) người gốc Đức di cư sang Mỹ năm 1904, được quốc tịch Mỹ năm 1911, và là thành viên của ngân hàng Kuhn, Loeb and Company Bankers ở New york (thuộc vào tài sản của Rothschild).

“First Name Club” được triệu tập đến một hòn đảo nhỏ bé, riêng biệt và vắng vẻ có tên là đảo Jekyll Island, ở Georgia, họp trong chín ngày liên tiếp, để viết một dự luật cải tổ hệ thống nhà bank và luật pháp tiền tệ (the banking and currency legislation) sẽ trình cho Congress.

H-: Trong dự luật có cái gì là đặc biệt?
Đ-: Có rất nhiều cái đặc biệt. Trước hết là cái tên: vì dân đã quá ghét. nên phải tránh cho kỳ được cụm-từ “Central Bank “ rồi phải làm sao cho dân tưởng rằng cơ quan này là của chánh phủ, do nhân viên chánh phủ điều khiển vì vậy mà có danh từ “Federal” và “Reserve“ (chớ không phải là Central Bank) và có Governing Board mà ông chủ tịch là do T.T. bổ nhiệm, và trong đó có hai nhân viên chánh phủ, mà trong thực tế thì Governing Board không có điều khiển được chánh sách của cơ quan. Rồi phải dùng những danh từ mờ ám khó hiểu để che giấu thực ý: như trong Lời Mở Đầu (Preamble) của dự luật nói: Mục đích của luật là để cho FED có thể “cung cấp một thứ tiền co dãn” (to furnish an elastic currency) nghĩa là gì?

Trong thực tế nghĩa là tiền mà nhà bank đã có thì nhà bank có thể, tùy nghi, thổi phồng lên. Rồi như danh từ “tái chiết khấu “(rediscounting) nghỉa là gì? Trong thực tế nghĩa là: một kỹ thuật cho phép nhà bank dùng để tăng gia tiền hiện có trong quỹ của nó, bằng cách cho vay thêm mà không cần chờ cho tới khi các loan trước hết hạn. Kết quả là Luật cho phép một nhà bank trung ương tư (a private central bank) tạo ra tiền từ chỗ không có gì hết (create money out of nothing) rồi cho chánh phủ vay số tiền đó để lấy lời và kiểm soát sự cung cấp tiền cho quốc gia bằng cách bơm phòng nó lên hay hút bớt nó xuống tùy theo ý muốn (control the national money supply, expanding or contracting it at will.)
H-: Thế mà không có Ông Nghị sĩ hay Dân biểu nào thấy sao?
Đ-: Có chớ. một số thấy và la làng lên .Như ở Hạ Viện Dân Biểu Charles Lindbergh Sr. (bố của phi công trứ danh Lindbergh) nói:” Luật tạo ra FED là một cái tội pháp luật tệ hại nhứt của mọi thời đại Hệ thống tài chánh đã bị lật lại cho một nhóm ngừơi chỉ có biết lợi dụng Hệ thống là của tư-nhân, được hướng dẫn về mục tiêu duy nhứt là lấy cho được những cái lợi tối đa từ việc xử dụng tiền của người khác “.

Và cũng còn một số dân biểu và nghị sĩ khác nữa la làng lên nhưng họ không đủ để đánh bại số dân biểu và nghị sĩ đã bị mua chuộc, đúng như lời của một người trong nhóm Rothschild ở London nói với một hội-viên của nhà bank ở New York ngày 25-6-1863 rằng: “Số nhỏ người hiểu cái hệ thống là gì, thì, hoặc là vì thấy có lợi cho mình, hoặc là vì đã tùy thuộc vào những ân huệ đang được hưởng, nên sẽ không có sự chống đối từ những hạng người đó. Còn nhóm đa số người không có đủ trí khôn để hiểu, thì sẽ chịu cái gánh nặng mà không than phiền”

Bởi vậy cho nên ngày 18-9-1913, dự luật được Hạ Viện chấp thuận với 287 phiếu thuận và 85 phiếu chống, rồi lên Thượng Viện thì ngày 19-12-1913, dự luật được chấp thuận với nhiều sửa đổi bằng 54 phiếu thuận và 34 phiếu chống. Đến đây lại có một việc lạ nhứt chưa bao giờ xẩy ra trong lịch sử của HCQHK, là trong cái bản văn của dự luật ở Hạ Viện có cho tới 40 điểm mà Thượng Viên không đồng ý nên đã sửa lại. Thì sau khi Thượng Viên biểu quyết, hai Viện phải ngồi chung lại để sữa lại sao cho cả hai bên đều đồng ý. Thế mà việc đó được thực hiện chỉ có trong một weekend. Cho nên ngày Thứ Hai 22-12-1913 dự luật được biểu quyết ở Hạ Viện với 282 phiếu thuận và 60 phiếu chống rồi cùng ngày, sang Thượng Viện được chấp thuận luôn với 43 phiếu thuận và 23 phiếu chống. Và T.T. Woodrow Wilson (1913-1921), vị T.T.thứ 28 của Mỹ ký thành Luật ngày hôm sau Thứ Ba 23-12-1913.

Tất cả những việc ấy xẩy ra một cách hết sức mau lẹ và trái ngược với tục lệ và truyền thống của Quốc Hội và của Chánh Phủ Mỹ là không bao giờ Lập Pháp Congress (Thượng và Hạ Viện) thảo luận và biểu quyết một Dự Luật vào lúc gần Noel, để cho Congress “recess” (thường thường là kể từ 15, 17 Dec.) và các Nghị Sĩ và Dân Biểu về quê của mình ăn mừng Christmas và New Year, và không bao giờ Hành Pháp (Chánh Phủ) ký một Đạo Luật vào Noel để cho T.T. về nhà riêng hay “ranch” của mình ăn mừng Christmas và New Year. Thế mà kỳ này Thượng Viên hợp lại, thảo luận, và biểu quyết ngày Thứ Sáu 19 Dec. Rồi cả hai viện làm việc với nhau weekend 20-21 Dec, để ngày Thứ Hai 22-Dec cả hai viện, hợp lại, thảo luận và biểu quyết dự luật, và ngày Thứ Ba 23 Dec. T.T. ký thành Luật.

Dân Biểu Lindbergh nói ở Hạ Viện: “Dự luật này thành lập cái “trust” khổng lồ nhất trên thế giới. Khi mà T.T. ký cái dự luật này (thành Luật), thì cái chánh phủ vô hình của Mãnh Lực Tiền Tệ sẽ được hợp-pháp-hóa. Dân chúng có thể không biết chuyện đó ngay, nhưng mà rồi sự biết được chuyện chỉ được dời lại vài năm sau mà thôi”. Trong lúc đó thì báo chí (đã ở trong tay của “Mãnh Lưc Tiền Tệ”) thì ca tụng hết lời. Báo New York Times viết bằng chữ lớn ở trang đầu: “Tổng Thống Wilson ký Dự Luật Tiền Tệ Sự phồn thịnh được tự do và sẽ giúp mọi giai câp.
H-: Thế là con hydra được khai sanh là đứa con hợp pháp của HCQHK để lớn lên với đất nước?
Đ-: Hay đúng hơn thì phải nói “để lớn lên với đứa em song thai”.
H-: Nói gì lạ vậy, đứa em song-thai nào?
Đ-: Khi nhóm của Nghị Sĩ Nelson Aldrich có Ông Paul Warburg chuẩn bị viết dự luật FED để trình cho Congress, họ đã tiên đóan rằng với sự áp dụng luật này thì CPLB sẽ mắc nợ FED càng ngày càng nhiều nên phải tím cách làm sao cho phép chánh phủ đánh thuế vào dân để có tiền trả nợ cho FED. thì họ kèm theo dự luật FED một Tu-Chỉnh Hiến Pháp (là the Sixteenth Amendment) cho phép CPLB đánh thuế income tax vào dân. Lúc ấy bản văn của Tu-Chỉnh chỉ có một trang giấy và nguyên Bộ Luật về thuế má chỉ có14 trang mà bây giờ thì nó dày đến 17,000 trang, cũng như nợ của chánh phủ do FED gây ra lớn lên từ số không cho tới bây giờ là $8.5 trillion.
H-: Bộ trước đó dân không phải đóng income tax cho CPLB sao?
Đ-: Không, trước 1913, dân chỉ đóng thuế income cho Tiểu Bang của mình mà thôi.
H-: Đã được hợp-pháp-hóa rồi, con hydra còn phá phách gì nữa không?
Đ-: Nói là phá phách thì không hẳn là phá phách, nhưng khi được hợp-pháp-hóa rồi thì FED hoạt động tích cực hơn, nên gây tai nạn cho dân.
H-: Tai nạn gì?
Đ-: Cuộc Đại Khủng Hoảng (The Great Depression) năm 1930.
H-: Bằng cách nào?
Đ-: Bằng cách tạo ra tiền “out of nothing” qua trò ảo-thuật “loan”. Để khuyến khích dân vay tiền, nên FED hạ thấp bách phân lời (% interest) thì dân ùn ùn vay loan và loan để có tiền tiêu xài thả ga. Thì nhà bank thảy vào nền kinh tế quốc gia một số tiền khổng lồ, tạo ra một cuộc lạm phát (inflation). Rồi nói là để kềm hảm sự lạm phát, thì lại siết chặt việc cung cấp tiền, thu hồi các loan đả phát ra, không cho vay loan mới, thì dân thiếu nợ phải vội vàng bán nhà cửa ruộng đất để trả nợ, nên những người có liên hệ với “Mãnh Lực Tiền Tệ (Monetary Power) có tiền mua những bất động sản ấy với giá rẻ mạt. Còn con cháu những người thiếu nợ thì trở nên vô gia cư vô nghề nghiệp đi lang thang thất thểu ngoài đường như hồi Mỹ còn là 13 thuộc địa dưới thời các vua George II và vua George III, trước ngày Cách Mạng Mỹ (American Revolution) năm 1774. Nhưng nhờ chánh sách “New Deal” của T.T.Franklin D.Roosevelt (1933-1945) vị T.T. thứ 32 của Mỹ, và việc lập lên cái FDIC (Federal Deposit Insurance Corporation) mà tình thế trở lại yên ổn. Giáo sư Milton Friedman, Nobel Prize về kinh tế, viết: “Nhứt định là FED đã gây ra cuộc Đại Khủng Hoảng vì thu rút lại một phần ba (1/3) số tiền đang lưu hành từ năm 1929 tới năm 1930”.

Còn Ông Louis T. McFadden Chủ tịch The House Banking and Currency Commttee, thì nói: “Cuộc khủng hoảng không phải là bất ngờ ngẫu nhiên mà là một việc được trù liệu rất cẩn thận … Những chủ nhà bank quốc tế tìm cách đem đến đây sự thất vọng để rồi họ có thể trở thành nhưng kẻ ra lệnh cho tất cả chúng ta”
H-: Thế rồi kể từ đó không có Ông T.T. nào dám đụng tới FED nữa?
Đ-: Có chớ, T.T. John F. Kennedy, (1961-1963) vị T.T. thứ 35 của Mỹ. Ngày 4-6-1963 T.T. Kennedy ký một Hành Pháp Lệnh (an Executive Order số 11110) cho phép CPLB phát hành tiền mà không phải qua FED bằng cách cho phép Bộ Tài Chành The Treasury phát hành những giấy chứng nhận bạc đối với mọi thoi bạc, bạc, hay là mọi dollar dựa trên bản vị bạc của Bộ (the power to issue silver certificates against any silver bullion, silver or standard silver dollars in the Treasury) Nghĩa là một khi Bộ Tài Chánh có trong kho một ounce bạc nào, thì Bộ có quyền phát hành ra một giấy bạc để lưu hành trong nền kinh tế. Như vậy T.T.Kennedy đã tung ra $4.3 tỷ dollars cho lưu hành. Thì FED bank của New York sẽ phá sản, vì dân chúng biết rằng các giấy chứng nhận bạc (silver certificates) của Chánh Phủ được bạc yểm trợ (backed by silver) chớ giấy bạc của FED (Federal Reserve Notes) không có cái gì yểm trợ hết. Lệnh số 11110 nói trên còn giúp chánh phủ trả hết nợ của mình mà không phải qua FED để trả tiền lời, do FED tạo ra tiền out of nothing. Tức là trên thực tế Lệnh sô 11110 cho CPLB quyền tạo ra tiền của mình có bạc yểm trợ, đúng theo Điều I, Phần 8 của Hiến Pháp Hoa Kỳ.
Năm tháng sau, ngày 22-11-1963, T.T.Kennedy bị tên Lee Harvey Oswald ám sát và tên này hai ngày sau bị Jack Ruby (Rubenstein) giết chết trong Dallas Police Station.
H-: Như thế thì phải chăng là một nhóm tài phiệt cai trị xứ này vì người ta hay nói: “Ai nắm được tiền là nắm được quyền” phải không?
Đ-: Tôi không dám trả lời là phải hay là không (yes or no) vì tôi không đọc được sách nào nói rõ là đã có một tòa án nào kết án một người nào trong giới Mãnh Lực Tiền Tệ (the Monetary Power) hay một vị nào trong nhóm những Nam Tước Trộm Cắp (the Robber Barons) về tội dùng tiền của mình mua được quyền thế. Cho nên tôi xin để cho quý bạn đọc mỗi người kết luận theo ý kiến của mình.

Tôi chỉ xin phép nhắc lại lời nói của Ông Nathan Rothschild hồi năm 1838: “Để cho tôi phát hành và kiểm soát tiền của một quốc gia, thì tôi cóc cần biết ai viết luật pháp”, và tôi cũng xin phép nhắc lại số phận của những vị Tổng Thống đã có gan dám chặt đầu con hydra tiền tệ: T.T.Andrew Jackson bị mưu sát, T.T.Abraham Lincoln và T.T.John F.Kennedy bị ám sát.


Tài liệu được tham khảo:

The Web of Debt by Ellen Hodgson Brown, nxb Third Millennium, Baton Rouge, 2007
http://www.webofdebt.com
The Secrets of the Federal Reserve by Eustace Mullins nxb Bankers Research Institute Staunton, 1993
Modern Money Mechanics published by the Federal Reserve Bank of Chicago, now out of print: http://landru.i-link-2.net
The Federal Reserve is a privately owned corporation by Thomas D. Schauf. 11-28-98 in http://www.apfn.org/

NLV
source
Calitoday

Thursday 23 July 2009

Việt Nam 'đứng đầu về gian lận quảng cáo'

Việt Nam 'đứng đầu về gian lận quảng cáo'

Sử dụng chuột và bàn phím

Một phúc trình mới của hãng khảo sát mạng Anchor Intelligence cho biết Việt Nam là nước đứng đầu thế giới về nạn gian lận click chuột trong quảng cáo (Click Fraud).

Click Fraud là thuật ngữ để chỉ hành động dùng các phần mềm chuyên dụng hay nhân công giá rẻ nhấn liên tục vào một hay các thanh quảng cáo (banner, logo, link…vv..) trên mạng nhằm tạo ra thành công giả tạo của chiến dịch quảng cáo.

Nói cách khác, các cú click chuột đó không tạo giá trị về kinh tế cho nhà quảng cáo mà chỉ phục vụ cho mục đích xấu của người nhấp chuột.

Các công ty dùng dịch vụ quảng cáo mạng thường phải trả tiền quảng cáo theo số lượng các cú click chuột vào quảng cáo của họ, và chuyện gian lận này có nghĩa là họ phải chịu thiệt hại nghiêm trọng.

Theo báo cáo của Anchor Intelligence, công ty có trụ sở tại Mỹ, trong sáu tháng đầu năm 2009, Việt Nam đứng đầu thế giới về nạn Click Fraud, chiếm tới 48.3% trong tổng lượng nhấp chuột.

Tỉ lệ này là cao hơn rất nhiều so với nước bị xếp ở vị trí thứ hai về nạn gian lận click chuột quảng cáo, là Canada với 27.7%.

Hoa Kỳ là nước đứng ở vị trí thứ ba, với mức 25.6%.

10 nước đứng đầu về Click Fraud

Việt Nam: 48.3%

Canada: 27.7%

Hoa Kỳ: 25.6%

Saudi Arabia: 21.2%

Úc: 20.7%

Ai Cập: 18.7%

Ấn Độ: 16.9%

Đức: 16.8%

Malaysia: 16.7%

Anh Quốc: 16.2%

Trong danh sách ‘Top 10’ về gian lận này, còn có Ảrập Saudi, Ai Cập, Ấn Độ, Malaysia, Úc.

‘Đe dọa nghiêm trọng’

Phúc trình của Anchor Intelligence nói nạn gian lận click chuột quảng cáo đang tạo ra đe dọa nghiêm trong cho dịch vụ quảng cáo trên mạng, và là mối lo ngại hàng đầu cho cả người bán lẫn kẻ mua.

Đây là một vấn nạn trong bối cảnh các dịch vụ quảng cáo truyền thống trên báo in và truyền hình đang dần chuyển mạnh sang online.

Phúc trình nhận định nạn Click Fraud trong nửa đầu năm nay không chỉ lan tràn ở những nước vốn có ‘lịch sử’ có các hoạt động gian lận online như Việt Nam, Ai Cập, Ấn Độ, mà còn tăng mạnh tại các nước phát triển như Mỹ và Canada.

Các doanh nghiệp Việt Nam được biết đang hết sức lo ngại về vấn đề này, vì nạn Click Fraud có nghĩa là các báo cáo về số lượng truy cập và người truy cập trên mạng không có ‎ ý nghĩa gì, không tạo ra hiệu quả về kinh tế, trong khi lại làm họ tốn thêm tiền.

Ngoài nạn Click Fraud, tin tức và các diễn đàn mạng cho hay tình trạng gian lận trong thương mại điện tử ở Việt Nam tiếp tục lan tràn.

source

BBC Vietnamese